Một năm thực hiện Nghị quyết 35: Kết quả và kỳ vọng

Tải các báo cáo liên quan đến Hội nghị, xin bấm vào đây.

Xem thêm các nội dung liên quan, xin bấm vào đây.

Kênh thông tin đặc biệt sẽ liên tục cập nhật các thông tin mới nhất về Hội nghị; kết quả 1 năm thực hiện Nghị quyết 35 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp; các ý kiến, kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp gửi tới Thủ tướng trước thềm Hội nghị; các báo cáo của các bộ ngành, địa phương tại Hội nghị.

Cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng vào Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp lần thứ hai năm 2017

CHỈ ĐẠO MỚI NHẤT CỦA THỦ TƯỚNG

Chấn chỉnh công tác thanh tra, kiểm tra DN


Một ngày trước Hội nghị, Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu chấn chỉnh công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp và giải quyết trùng lắp trong hoạt động thanh tra, kiểm toán.

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp; giải quyết việc chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra, kiểm toán; tiếp tục thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc giao Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương có liên quan khẩn trương nghiên cứu, xây dựng dự thảo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp để kịp thời giải quyết các phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp về việc vẫn còn có quá nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra trong cùng một năm; tạo điều kiện hỗ trợ, phát triển và bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp; báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ trước ngày 17/5/2017.

Thủ tướng Chính phủ giao Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Kiểm toán Nhà nước rà soát để sửa đổi hoặc kiến nghị sửa đổi các quy định trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra, kiểm toán; không để xảy ra sự chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra, kiểm toán gây phiền hà, khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; báo cáo kết quả lên Thủ tướng Chính phủ trong quý II/2017.

Xem xét điều chỉnh mức phí cảng Hải Phòng

Chiều 16/5, Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản gửi các Bộ ngành, UBND thành phố Hải Phòng và VCCI truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ về thu phí sử dụng kết cấu hạ tầng cảng biển Hải Phòng.

Xét đề nghị của Bộ Tài chính (Công văn số 4515/BTC-CST ngày 4/4/2017), ý kiến của Bộ Tư pháp (Công văn số 1472/BTP-KTrVB ngày 3/5/2017), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Công văn số 3482/BKHĐT-KCHTĐT ngày 26/4/2017), Bộ Công Thương (Công văn số 3944/BCT-XNK ngày 8/5/2017), Bộ Giao thông vận tải (Công văn số 4492/BGTVT-TC ngày 26/4/2017), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (Công văn số 0966/PTM-PC) về việc sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu cảng biển Hải Phòng, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ có ý kiến như sau:

UBND thành phố Hải Phòng tổ chức rà soát, đánh giá việc thu phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu cảng biển Hải Phòng đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu; tổng hợp ý kiến, kiến nghị của các hiệp hội, doanh nghiệp và trình Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng tại kỳ họp gần nhất để cân nhắc, xem xét điều chỉnh mức thu phí, đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật phí, lệ phí và pháp luật khác có liên quan, phù hợp với khả năng đóng góp và tính cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi tại Việt Nam theo như chỉ đạo của Chính phủ tại các Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 và số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016.

Bộ Tài chính thường xuyên theo dõi, giám sát các địa phương trong ban hành quy định về phí và lệ phí; kịp thời xử lý các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện. Chủ trì phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và cơ quan liên quan thường xuyên tổ chức họp báo, cung cấp các tài liệu, báo cáo về chính sách và việc thực hiện các quy định của pháp luật phí và lệ phí kịp thời, đầy đủ đến các cơ quan báo chí để thông tin rộng rãi tới doanh nghiệp và người dân.

Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí trong thông tin, tuyên truyền về chính sách phí và lệ phí nói chung và chính sách thu phí sử dụng công trình, kết cấu hạ tầng, công trình dịch  vụ, tiện ích công cộng khu vực cửa khẩu nói riêng, bảo đảm đúng với quy định của pháp luật về phí và lệ phí.

BÁO CÁO CỦA VCCI VỀ 1 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 35

Chuẩn bị cho Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp, ngày 15/5, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.

Theo VCCI, việc ban hành Nghị quyết 35 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 trong thời gian ngắn “kỷ lục”, với các mục tiêu nguyên tắc, nhiệm vụ giải pháp hiệu quả, khả thi và phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng đã thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn, thân thiện nhằm xây dựng cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững.

Kết quả khảo sát nhanh của VCCI vào cuối năm 2016 đầu năm 2017 cho thấy có 75% doanh nghiệp đánh giá tác động của 5 nhóm nhiệm vụ giải pháp được đưa ra trong nghị quyết là “tương đối tích cực”, “tích cực” và “rất tích cực”, chỉ có 25% doanh nghiệp cho biết chưa nhận thấy tác động của các nhóm giải pháp này. Các doanh nghiệp, nhà đầu tư đã ban đầu được hưởng lợi từ việc ban hành và thực hiện Nghị quyết.

Theo VCCI, các nguyên tắc quan trọng của Nghị quyết như “Các cơ quan quản lý nhà nước khi ban hành và thực thi chính sách phải bảo đảm xác định rõ mỗi nhiệm vụ có một đầu mối và người chịu trách nhiệm”, “Không hình sự hóa quan hệ kinh tế, dân sự, đồng thời xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật”, “Doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm”… đã có tác động rất lớn đến bộ máy cơ quan Nhà nước các cấp, không chỉ cơ quan hành pháp mà kể cả hệ thống tư pháp.

Điều đặc biệt, nhiều doanh nghiệp cho biết đã gặp thuận lợi hơn trong thực hiện thủ tục hành chính từ những giải pháp rất cụ thể của Nghị quyết như “kết hợp thanh tra, kiểm tra liên ngành nhiều nội dung trong một đợt thanh tra, kiểm tra, trừ trường hợp thanh tra, kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật rõ ràng” hay “giải quyết thủ tục hành chính cho doanh nghiệp theo nguyên tắc khi cần yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ thì thông báo một lần bằng văn bản cho doanh nghiệp, nhà đầu tư về toàn bộ các nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung đối với mỗi bộ hồ sơ”.

Sau khi Nghị quyết được ban hành, các bộ, ngành đã tích cực vào cuộc. Những rụt rè, cân nhắc khi đơn giản hoá, bãi bỏ thủ tục hành chính của chính các bộ ngành đã giảm bớt rất nhiều. Các cuộc đối thoại, rà soát những cản trở kinh doanh trong nhiều lĩnh vực đã được tổ chức, gần đây nhất (ngày 13/5/2017) là cuộc đối thoại trực tiếp do Văn phòng Chính phủ tổ chức với các bộ, ngành về những vướng mắc liên quan đến các doanh nghiệp thủy sản.  

Một số bộ ngành đã khởi động nhiều chương trình lớn, quan trọng với doanh nghiệp. Đa số các tỉnh, thành phố đã thực sự vào cuộc tích cực, hưởng ứng cùng Chính phủ. Việc thay đổi nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là ở cấp cơ sở về tinh thần, thái độ phục vụ doanh nghiệp trong quá trình thực hiện nghị quyết 35/NQ là một tiến bộ quan trọng, đáng ghi nhận.

Công tác cải cách thủ tục hành chính của nhiều địa phương đã đạt được kết quả tốt, một số thủ tục hành chính vượt chỉ tiêu mà Nghị quyết 19 yêu cầu và  địa phương cam kết. Như thời gian thành lập doanh nghiệp, đa số các tỉnh là 2 ngày (giảm 1 ngày so với Cam kết).

Việc tổ chức đối thoại giữa các cấp chính quyền với doanh nghiệp được đa số các địa phương quan tâm. Đặc biệt mô hình “cà phê doanh nhân” được nhiều tỉnh quan tâm tổ chức nhằm tạo không khí thân thiện giữa chính quyền và doanh nghiệp trong đối thoại và giải quyết khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp.

MỘT SỐ KẾT QUẢ SAU 1 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 35

Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sau một năm tích cực triển khai Nghị quyết 35/NQ-CP đã đạt được một số kết quả sau:

- Nghị quyết đã góp phần tạo dựng niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp, thể hiện những cam kết của Chính phủ đối với cộng đồng doanh nghiệp, truyền đi thông điệp mạnh mẽ về Chính phủ kiến tạo, phục vụ, hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp phát triển; coi doanh nghiệp là động lực phát triển kinh tế. Sau gần một năm triển khai thực hiện, bộ máy công quyền đã có sự chuyển biến về tư tưởng, nhận thức với tinh thần phục vụ và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp.

- Ở cấp Trung ương, các Bộ, ngành đã xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị trực thuộc và chỉ đạo, đôn đốc triển khai Nghị quyết. Người đứng đầu của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ đã có sự chỉ đạo quyết liệt trong triển khai Nghị quyết 35; kịp thời sửa đổi, bổ sung nhiều chính sách với những nội dung tích cực hỗ trợ doanh nghiệp như Bộ Công Thương, Bộ Nội vụ, Bộ Xây dựng…  

- Ở cấp địa phương, UBND các tỉnh, thành phố tích cực triển khai, có nhiều sáng kiến hay trong tổ chức đối thoại doanh nghiệp để nắm bắt tình hình, giải quyết khó khăn, kiến nghị của doanh nghiệp; thực hiện nghiêm túc các quy định về đất đai, xây dựng, môi trường, đăng ký kinh doanh, đầu tư và các thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.

- Với sự nỗ lực, chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP cùng hàng loạt các giải pháp đồng bộ khác, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam thời gian qua đã được cải thiện đáng kể, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới năm 2016, Việt Nam đứng thứ 82/190 quốc gia, tăng 9 bậc về chỉ số môi trường kinh doanh (từ vị trí 91/189 lên 82/190) với 5 chỉ số tăng hạng. Theo khảo sát của Jetro, Việt Nam tiếp tục là địa điểm đầu tư quan trọng của doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam, trên 66% doanh nghiệp có xu hướng “mở rộng hoạt động kinh doanh” tại Việt Nam. Đây là tỉ lệ cao so với các quốc gia khác. AmCham đánh giá Việt Nam nổi bật với việc cải thiện lớn về môi trường kinh doanh, có 36% doanh nghiệp Mỹ được khảo sát dự định mở rộng kinh doanh tại Việt Nam (so với 48% ở Indonesia, 21% ở Thái Lan, 19% của Malaysia). Khảo sát của EuroCham Quý IV/2016 cũng cho thấy, các doanh nghiệp châu Âu đánh giá tốt về triển vọng kinh doanh tại Việt Nam….

Việc triển khai đồng bộ các giải pháp của Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương đã có tác động tích cực đến số lượng doanh nghiệp thành lập mới, đầu tư nước ngoài trong những tháng cuối năm 2016 và đầu năm 2017:

1. Về số lượng doanh nghiệp đăng ký mới: Trong năm 2016, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 110.100 doanh nghiệp, đạt kỷ lục cao nhất về số lượng từ trước tới nay; số vốn cam kết đưa vào thị trường tăng 48,1% so với cùng kỳ; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 24,1%. Trong 4 tháng đầu năm 2017, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 39.580 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 369.635 tỷ đồng, tăng 14% về số doanh nghiệp và tăng 48,9% về số vốn so với cùng kỳ. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động đạt 11.545, tăng 1,9% so với cùng kỳ. Tính đến 20/4/2017, cả nước có khoảng 612 ngàn doanh nghiệp đang hoạt động.

 Về đầu tư nước ngoài, tính đến 31/12/2016 cả nước có 2.613 dự án mới được cấp GCNĐKĐT với tổng vốn đăng ký là 15,81 tỷ USD, tăng 23,3% về số dự án và bằng 96,8% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Cả nước có 1.249 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 6,56 tỷ USD, tăng 36,1% về số dự án và bằng 84,4% về vốn tăng thêm so với cùng kỳ. Có 5.970 doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần với tổng vốn đầu tư là 4,51 tỷ USD.

Riêng trong 4 tháng đầu năm 2017 cả nước có 734 dự án mới được cấp GCNĐKĐT với tổng vốn đăng ký là 4,88 tỷ USD, bằng 96% so với cùng kỳ năm 2016; có 345 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 4,36 tỷ USD, tăng 241,8 % so với cùng kỳ năm 2016 và 1687 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN với tổng giá trị góp vốn là 1,35 tỷ USD, tăng 106,8% so với cùng kỳ 2016. Tính chung trong 4 tháng đầu năm 2017, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần là 10,95  tỷ USD, tăng 40,5% so với cùng kỳ năm 2016.

Các con số nêu trên minh chứng cho niềm tin của doanh nghiệp trong và ngoài nước vào môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam đang được cải thiện rõ rệt.

2. Về đóng góp tổng vốn đầu tư toàn xã hội của khu vực tư nhân: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2016 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.485 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% so với năm 2015 và bằng 33% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 557,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,6% tổng vốn và tăng 7,2%; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 579,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 39% và tăng 9,7%; vốn khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 347,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,4% và tăng 9,4%. Như vậy, mục tiêu này bước đầu đạt được so với mục tiêu năm 2020, khu vực tư nhân đóng góp khoảng 49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

3. Năng suất lao động xã hội của toàn nền kinh tế năm 2016 theo giá hiện hành ước tính đạt 84,5 triệu đồng/lao động (tương đương khoảng 3.853 USD/lao động). Tính theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2016 ước tính tăng 5,31% so với năm 2015. 

Nhiều nhiệm vụ trong 5 nhóm giải pháp trong Nghị quyết 35 đã được triển khai, cụ thể như sau:

1. Về nhóm giải pháp cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp

Chính phủ đã ban hành 50 nghị định về điều kiện đầu tư kinh doanh theo Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, trong đó tập trung cắt giảm nhiều thủ tục, giấy phép, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Một số lĩnh vực được cải thiện rõ rệt về thủ tục hành chính. Điển hình là:

- Thủ tục về thuế và hải quan đã được đẩy mạnh thông qua việc áp dụng  hiện đại hoá, giảm thủ tục, thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Hệ thống khai thuế qua mạng, nộp thuế điện tử đã được triển khai tại 63 Cục thuế và 100% chi cục thuế trực thuộc. Doanh nghiệp kê khai điện tử đạt tỷ lệ 99,64 % và được hỗ trợ nộp thuế xuất nhập khẩu bằng phương thức điện tử. Số thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực thuế năm 2016 đã giảm 85 thủ tục so với 2015…

- Cơ chế một cửa quốc gia của Việt Nam đã kết nối kỹ thuật thành công với 04 nước ASEAN (Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Singapore) để trao đổi Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D cho hàng hóa xuất khẩu có xuất xứ ASEAN. Cơ chế một cửa quốc gia đã kết nối chính thức với 11/14 Bộ. Ngoài thủ tục thông quan hàng hóa (Bộ Tài chính), 37 thủ tục hành chính của 09 Bộ còn lại đã được thực hiện thông qua Cơ chế một cửa quốc gia. Tổng số bộ hồ sơ hành chính đã được xử lý trên cổng là 264 nghìn bộ hồ sơ, với sự tham gia của hơn 8,2 nghìn doanh nghiệp.

- Đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử đã được đưa vào vận hành, đáp ứng yêu cầu dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, góp phần giảm thời gian, chi phí thành lập doanh nghiệp và xây dựng một hệ thống đăng ký kinh doanh minh bạch, hạn chế tối đa tiêu cực có thể phát sinh từ sự can thiệp của con người. Trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp, hiện có 95/115 quy trình đạt tiêu chuẩn dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Tỷ lệ hồ sơ được chấp thuận ngay lần đầu tiên đạt gần 86%, tỷ lệ hồ sơ trả kết quả đúng hẹn đạt gần 90%.

Hệ thống tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ do Văn phòng Chính phủ điều hành đã tiếp nhận tổng cộng 586 phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp, trong đó, Văn phòng Chính phủ đã phân loại, chuyển 489 phản ánh, kiến nghị tới các Bộ ngành, địa phương để xem xét, xử lý theo thẩm quyền. Đến nay, đã có 372 phản ánh, kiến nghị đã được các Bộ ngành, địa phương xử lý và trả lời doanh nghiệp, đạt tỷ lệ 76,1%. Đối với 97 phản ánh, kiến nghị còn lại thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ hoặc phải giải quyết theo quy trình khiếu nại, tố cáo cũng đã được Văn phòng Chính phủ trình Thủ tướng Chính phủ giải quyết, cũng như xử lý theo quy trình khiếu nại, tố cáo theo quy định. 

Mặc dù vậy, phản ánh từ cộng đồng doanh nghiệp cho thấy vẫn tồn tại khoảng cách giữa chính sách và thực thi, các doanh nghiệp vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong các thủ tục hành chính, đầu tư kinh doanh gây phiền hà, tồn thời gian, chi phí và đâu đó làm cho doanh nghiệp mất niềm tin.

2. Về nhóm giải pháp tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo

Tinh thần quyết tâm thúc đẩy khởi nghiệp, lập nghiệp của Thủ tướng Chính phủ không chỉ được các cơ quan nhà nước, địa phương hưởng ứng mạnh mẽ mà đã lan toả sang cả khu vực tư nhân. Trong năm 2016, hàng trăm hội nghị, hội thảo, sự kiện, cuộc thi về khởi nghiệp được tổ chức; 28 không gian làm việc chung và sáng tạo ra đời, đa số của tổ chức tư nhân; mạng lưới các nhà đầu tư cá nhân cho khởi nghiệp bắt đầu được hình thành; nhận thức của cả xã hội về khởi nghiệp đã được nâng lên đáng kể.

Các chính sách, biện pháp hỗ trợ DNNVV, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo đã được rà soát, đánh giá và đề xuất lồng ghép vào Luật Hỗ trợ DNNVV. Việc sửa đổi, bổ sung chức năng và nhiệm vụ của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV, Quỹ Phát triển DNNVV, Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo… đang được các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước phối hợp, khẩn trương xây dựng để tằng cường nguồn vốn cho DNNVV, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các chính sách đầu tư đối với doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã được thực hiện. Các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội doanh nghiệp đã có nhiều chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV, doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo…

Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo đang được Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai. Các địa phương như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Điện Biên, Thừa Thiên-Huế, Phú Yên, Cần Thơ, Sóc Trăng… đã xây dựng và đang triển khai kế hoạch hỗ trợ khởi nghiệp một cách tích cực. Đề án hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, xin ý kiến để sớm trình Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, các nội dung về khởi nghiệp đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo đưa vào chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học.

3. Về nhóm giải pháp bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 58/2016/QĐ-TTg theo hướng tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, dự kiến đến 2020 chỉ còn 103 DNNN, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực: quốc phòng an ninh, xổ số, truyền tải điện, in đúc tiền, công ích, xuất bản.... Quyết định nêu rõ 137 doanh nghiệp sẽ thực hiện cổ phần hóa đến năm 2020, trong đó bao gồm nhiều doanh nghiệp lớn, hoạt động trong những ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như: sản xuất, kinh doanh bán lẻ điện, hóa chất cơ bản, thuốc lá, khai thác khoáng sản quy mô lớn, dịch vụ viễn thông, tài chính ngân hàng…Việc thực hiện quyết liệt công tác cổ phần hoá DNNN sẽ mở ra thị trường, nhường chỗ cho khu vực tư nhân tham gia.

- Trong lĩnh vực khoa học công nghệ, một số nghị định về kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo lường, chuẩn đo lường; về kinh doanh mũ bảo hiểm cho người đi xe mô tô, xe máy... Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) đã được hoàn thiện, chờ phê duyệt. Nghị định về doanh nghiệp khoa học công nghệ đã được sửa đổi theo hướng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tạo điều kiện thuận lợi nhất trong việc đăng ký, chứng nhận và hoạt động của doanh nghiệp khoa học công nghệ.

- Về tiếp cận vốn, để duy trì lãi suất hợp lý, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện các biện pháp cân đối vốn duy trì ổn định lãi suất huy động, tiết giảm chi phí hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh để có điều kiện giảm lãi suất cho vay. Mặt bằng lãi suất huy động ổn định từ cuối tháng 9/2016. Một số TCTD lớn đã điều chỉnh giảm từ 0,3-0,5%/năm lãi suất huy động và có xu hướng giảm khoảng 0,5-1%/năm. Hiện lãi suất cho vay phổ biến 6-9%/năm đối với ngắn hạn; 9-11%/năm đối với trung và dài hạn; đối với nhóm khách hàng tốt, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4-5%/năm. Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các TCTD tập trung nghiên cứu đề xuất các chương trình nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn và các dịch vụ ngân hàng phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; khuyến khích công bố những gói sản phẩm hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là DNNVV. Một số ngân hàng thương mại (NHTM) đã chủ động xây dựng các chương trình tín dụng ưu đãi lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp.

Tuy nhiên, theo phản ánh từ phía cộng đồng doanh nghiệp vấn đề tiếp cận vốn còn rất nhiều khó khăn.

4. Về nhóm giải pháp giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp

- Để rà soát các quy định pháp luật về đất đai theo hướng điều chỉnh giảm tiền thuê đất, chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất và các chi phí khác của doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã báo cáo Chính phủ cho triển khai biện pháp mở rộng phạm vi áp dụng phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất để xác định nghĩa vụ tài chính về tiền thuê đất cho doanh nghiệp.

- Việc điều chỉnh mức thu phí sử dụng đường bộ, phí BOT: 15 Thông tư đã được ban hành để điều chỉnh mức thu phí của 29 trạm thu phí, vượt 10 trạm so với chỉ tiêu được Thủ tướng Chính phủ giao. Tuy nhiên, vẫn còn một số trạm thu phí còn chưa giảm được do nhà đầu tư không đồng ý với phương án giảm phí do ảnh hưởng đến việc trả nợ, trả lãi vay như đã tính toán trong hợp đồng. Trong thời gian tới, Bộ Giao thông Vận tải cần tiếp tục tập trung đẩy nhanh công tác quyết toán chi phí đầu tư các dự án BOT, cập nhật lại các yếu tố đầu vào như cơ chế kiểm tra, kiểm soát lưu lượng phương tiện, doanh thu thực tế để có cơ sở tính thời gian hoàn vốn và mức phí của các dự án đầu tư theo hình thức BOT; cần khắc phục ngay công tác quản lý dự án, vị trí lắp đặt trạm thu phí, mức thu phí… và công khai thông tin liên quan, đảm bảo minh bạch. Ngoài ra, Bộ Giao thông Vận tải cũng đã ban hành Thông tư quy định mức giá tối đa dịch vụ sử dụng đường bộ các dự án đầu tư xây dựng đường bộ để kinh doanh do Bộ quản lý.

- Về các khoản phụ thu bất hợp lý đối với hàng xuất nhập khẩu, Bộ Giao thông Vận tải đã chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan lập tổ công tác liên ngành về việc các hãng tàu nước ngoài thu các khoản phụ thu bất hợp lý đối với hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam, đồng thời đề xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định về quản lý, giám sát đối với giá, phụ thu ngoài giá dịch vụ vận chuyển bằng đường biển của doanh nghiệp vận tải biển. Các nội dung quy định về quản lý cước vận tải biển và phụ phí theo cước vận tải biển đã được đưa vào Bộ luật Hàng hải Việt Nam và Nghị định số 146/2016/NĐ-CP (có hiệu lực từ 1/7/2017) nhằm tạo sự đồng thuận giữa hãng tàu và chủ hàng xuất nhập khẩu trong việc ký kết hợp đồng vận chuyển đảm bảo công khai, minh bạch các khoản thu, ngăn chặn tình trạng tuỳ tiện ép giá đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện nay.

- Đối với việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 218/2013/NĐ-CP về thuế thu nhập doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã có văn bản trình Thủ tướng Chính phủ trước mắt chưa thực hiện và đã được đồng ý.

- Về điều chỉnh lương tối thiểu vùng, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 153/2016/NĐ-CP ngày 14/11/2016 quy định mức lương tối thiểu vùng áp dụng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017), tăng từ 180 nghìn đồng đến 250 nghìn đồng so với hiện hành năm 2016, mức bình quân tăng 7,3%. Đây là mức điều chỉnh tăng thấp nhất trong 05 năm gần đây. Các chính sách thuộc lĩnh vực bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và quỹ bảo hiểm thất nghiệp cũng được rà soát, một số nội dung được điều chỉnh như điều chỉnh giảm mức đóng vào Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, quy định người sử dụng lao động hàng tháng đóng tối đa 1% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, thay vì mức đóng cố định 1%; đề xuất giảm tỷ lệ đóng vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

5. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp

- Về công tác thanh tra chuyên ngành, kiểm tra và kiểm toán, Thanh tra Chính phủ đã quán triệt giảm mật độ và hạn chế chồng chéo trong hoạt động thanh tra tại các doanh nghiệp; tăng cường công tác thanh tra, phát hiện xử lý vi phạm, góp phần lành mạnh môi trường đầu tư kinh doanh. Định kỳ hàng quý, Thanh tra Chính phủ tổ chức họp báo công bố kết quả công tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng và trả lời câu hỏi dư luận quan tâm. 

 Về nhiệm vụ thực hiện thanh tra, kiểm tra đúng quy định của pháp luật (không quá một lần/năm), một số địa phương như Đà Nẵng, Hà Nội, Lào Cai, Quảng Bình, Đắk Lắc, Sóc Trăng … đã ban hành văn bản đôn đốc, hướng dẫn trong việc phối hợp giữa các đơn vị trực thuộc, còn hầu hết các địa phương chưa có hướng dẫn cụ thể.

- Về đảm bảo an ninh kinh tế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, Bộ Công an chú trọng nắm tình hình, thu thập thông tin hỗ trợ doanh nghiệp trong lựa chọn đối tác nước ngoài, đã tiếp nhận 86 yêu cầu xác minh đối tác, phát hiện 13 trường hợp có dấu hiệu nghi vấn lừa đào, 11 trường hợp là đơn vị có năng lực tài chính và công nghệ tiên tiến đầu tư vào Việt Nam, kịp thời ngăn chặn hoạt động lừa đảo, tội phạm kinh tế. Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển, Bộ đã chỉ đạo công an các đơn vị địa phương triệt phá các băng nhóm tội phạm, trong đó phát hiện nhiều nhóm tội phạm nguy hiểm “núp bóng” công ty, doanh nghiệp để hoạt động phạm tội, ảnh hưởng xấu đến môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp. Năm 2016, lực lượng công an đã phát hiện, xử lý 16.823 vụ vi phạm về trật tự quản lý kinh tế.

- Về nội dung không hình sự hoá các quan hệ kinh tế, Bộ Công an chỉ đạo thường xuyên kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong điều tra, khởi tố các vụ án, nhất là các vụ án có liên quan đến doanh nghiệp. Tuy nhiên, còn xảy ra một vài vụ oan, sai do cán bộ công an chưa chấp hành nghiêm pháp luật, nhũng nhiễu người dân và doanh nghiệp. Ngành công an đã xử lý nghiêm những sai phạm theo quy định. Việc chỉ đạo các Sở, ban, ngành, UBND cấp quận, huyện không hình sự hóa các quan hệ kinh tế của UBND cấp tỉnh chưa có hành động cụ thể, mới chỉ có quy định về nội dung này trong cam kết ký với VCCI về tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp.

10 NGHÌN ĐẠI BIỂU DỰ HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG "ĐỒNG HÀNH CÙNG DOANH NGHIỆP"

Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Hội nghị với chủ đề “Đồng hành cùng doanh nghiệp” sẽ diễn ra từ lúc 7 giờ 30 phút ngày 17/5 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội. Chủ đề Hội nghị thể hiện quyết tâm xây dựng Chính phủ kiến tạo, hành động, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, thực sự là động lực phát triển của đất nước. 

Tham dự Hội nghị có Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân; lãnh đạo Ban Kinh tế Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Bộ trưởng các Bộ: Công an, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Khoa học và Công nghệ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Tổng Thanh tra Chính phủ; lãnh đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ; Chủ tịch UBND TP Hà Nội; lãnh đạo Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan, Tổng cục An ninh, Tổng cục Cảnh sát, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.

Khoảng 2.000 đại biểu sẽ trực tiếp tham dự Hội nghị, gấp 4 lần năm ngoái, trong đó khối doanh nghiệp tư nhân khoảng 1.500 đại biểu, cùng khoảng 200 đại biểu từ khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), một số sứ quán và các định chế tài chính lớn, 100 đại biểu từ các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp đã cổ phần hóa, cùng đại diện các cơ quan nhà nước, các cơ quan báo chí…

Tham dự Hội nghị qua hình thức trực tuyến còn có lãnh đạo 63 tỉnh, thành phố cùng các đại biểu doanh nghiệp, với số lượng 50 - 100 người mỗi điểm cầu. Dự kiến, tổng cộng khoảng gần 10.000 đại biểu sẽ dự Hội nghị.

Dự kiến tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ báo cáo sơ kết tình hình thực hiện Nghị quyết 35 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp. Chủ tịch VCCI sẽ báo cáo tổng hợp đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp về việc thực hiện Nghị quyết này.

Các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp hiến kế, kiến nghị; các Bộ, ngành, địa phương trao đổi, thảo luận với doanh nghiệp để giải quyết các vướng mắc, kiến nghị. Thủ tướng Chính phủ sẽ kết luận và sau Hội nghị, Thủ tướng sẽ có Chỉ thị về đồng hành cùng doanh nghiệp.

Ngay sau Hội nghị, trong cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ sẽ họp với các Bộ, ngành, cơ quan để xem xét, xử lý kiến nghị của doanh nghiệp.

Chiều 8/5, Văn phòng Chính phủ tổ chức họp báo thông tin về Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp năm 2017. Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Lê Mạnh Hà chủ trì họp báo. Cùng dự có Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc, Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp Bộ Kế hoạch và Đầu tư Hồ Sĩ Hùng.

Theo ông Lê Mạnh Hà, trong khoảng 2.000 đại biểu trực tiếp dự Hội nghị, khối kinh tế tư nhân sẽ là thành phần chủ yếu với khoảng 1.500 đại biểu. “Điều này cân đối với vai trò và số lượng của khu vực tư nhân với nền kinh tế. Hiện cả nước chỉ còn khoảng 300 doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta đặt mục tiêu tới năm 2020 có 1 triệu doanh nghiệp thì cũng chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân. Nói tới doanh nghiệp thì vai trò, số lượng chủ yếu vẫn là doanh nghiệp tư nhân”, ông Lê Mạnh Hà cho biết.

Phó Chủ nhiệm VPCP Lê Mạnh Hà cho biết, để chuẩn bị cho hội nghị đã có có 18 bộ, ngành, 48 địa phương đã gửi báo cáo về việc thực hiện các vấn đề nêu trong Nghị quyết 35, hiện các bộ ngành và VCCI đang tổng hợp, sẽ có văn bản chính thức và sẽ được đăng tải công khai để doanh nghiệp, báo chí quan tâm theo dõi.

Trước Hội nghị, toàn bộ các báo cáo của các Bộ, cơ quan liên quan sẽ được công bố trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.

Ông Hồ Sỹ Hùng cho rằng, việc Thủ tướng đối thoại với DN tại hội nghị thể hiện sự quan tâm của lãnh đạo cấp cao, là sự động viên lớn đối với doanh nghiệp tư nhân, đồng hành cùng doanh nghiệp, nhất là khu vực doanh nghiệp tư nhân trong quá trình khởi nghiệp, phát triển.

TRƯỚC THỀM HỘI NGHỊ, DOANH NGHIỆP KIẾN NGHỊ HÀNG LOẠT VẤN ĐỀ 

Theo ông Hoàng Quang Đông - Giám đốc Công ty NHH Hoàng Minh Châu (Hưng Yên): Trong những năm qua, số lượng các DN tư nhân ngày càng tăng mạnh, song vòng luẩn quẩn nhỏ lẻ, nguồn lực hạn chế, dẫn đến khó tiếp cận vốn, đất đai đang khiến quy mô nhiều DN tư nhân giậm chân tại chỗ, khó đầu tư sản xuất lớn.

Do vậy, các DN tư nhân rất cần sự hỗ trợ bằng những giải pháp cụ thể, trong đó có việc hỗ trợ tiếp cận tín dụng. 

 “Bởi bản thân DN tôi hiện đang vay vốn với lãi suất 8%/năm mà chỉ được vay ngắn hạn. Rất mong lãi vay ngân hàng đối với DN tư nhân nên giảm từ 1 - 2% và nên hỗ trợ DN được vay dài hạn hơn, tiếp cận tín dụng dễ hơn để có kế hoạch đầu tư lâu dài” - ông Đông bày tỏ.

Từ một góc nhìn khác ông Nguyễn Trung Anh - Giám đốc R&D Tập đoàn PAN kiến nghị: Chính phủ cần kiến tạo và định hướng nguồn lực chứ không nên theo hướng kiểm soát và phân bổ nguồn lực.

Ông dẫn chứng, hiện nay Chính phủ đang chỉ đạo nghiên cứu gói tín dụng hỗ trợ nông nghiệp công nghệ cao từ 60.000 - 100.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc triển khai như thế nào đến nay vẫn chưa rõ ràng. Cần phải làm rõ cơ chế phân bổ, điều kiện nhận hỗ trợ gói tín dụng này như thế nào để tránh tình trạng DN lập dự án để xin hỗ trợ mà không hiệu quả.

Ông Nguyễn Trung Anh đề xuất, trong thời gian tới nên dùng chính sách ưu đãi thuế để định hướng nguồn lực thay vì phân bổ nguồn lực qua gói tín dụng ưu đãi cho các DN.

Theo ông Chu Đức Lượng, Công ty CP Tập đoàn Phú Mỹ, nên tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh bằng các đòn bẩy kinh tế hơn là dùng mệnh lệnh hành chính. Như trong chính sách khuyến khích hộ kinh doanh cá thể thành lập doanh nghiệp, số lượng không quan trọng bằng chất lượng.

Các hộ kinh doanh cá thể hoàn toàn vẫn có thể kinh doanh tốt, với năng suất lao động và bộ máy nhỏ nhưng không phải chịu thêm những chi phí lãng phí, phi kinh tế, phi thị trường.

“Trong thời kỳ hội nhập, hãy để các thành phần kinh tế tự chủ động trong phát triển, hội nhập. Doanh nghiệp cần những giải pháp là động lực, đòn bẩy chứ không phải những mệnh lệnh phi thị trường”, ông Lượng nêu ý kiến.

Ông Võ Quốc Hào, Tổng Giám đốc Công ty May Bình Minh (TPHCM) chia sẻ, các doanh nghiệp nhiều lao động như dệt may, da giày hiện còn chồng chất khó khăn, vì số lượng lao động rất lớn, chủ yếu là lao động giản đơn, nhưng chi phí sản xuất mỗi năm lại tăng theo mức tăng của lương tối thiểu, chi phí bảo hiểm tăng…trong khi thuế thu nhập doanh nghiệp vẫn cao. Do đó, bên cạnh rút ngắn thủ tục hành chính, thì cần nhiều giải pháp cụ thể hơn.

 “Với các doanh nghiệp có số lượng lao động lớn, nếu lương tối thiểu tăng thì bảo hiểm xã hội nên giảm xuống. Thuế thu nhập doanh nghiệp không thể nào vẫn là 20%, chỉ nên ở mức 10%/năm.

Quan trọng là Chính phủ cần đưa ra được động lực cụ thể để phát triển kinh tế chứ không chỉ ở hô hào chung chung rồi doanh nghiệp lại phải tự bơi”, ông Hào kiến nghị.

Còn theo ông Vũ Thành, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, cần phải nâng cao trình độ quản lý ở bộ ngành, địa phương.

Chẳng hạn như với kiểm tra chuyên ngành trong hoạt động xuất nhập khẩu, nếu cứ phân tán, chồng chéo, trùng lắp sẽ khiến doanh nghiệp mệt mỏi vì phải làm thủ tục nhiều lần.

“Thủ tục xuất, nhập khẩu cần phải tập trung theo nguyên tắc một cửa, quản lý rủi ro theo thông lệ quốc tế, phân luồng ưu tiên. Bên cạnh đó là nguyên tắc công nhận lẫn nhau giữa các cơ quan, đơn vị để giảm bớt thời gian, chi phí cho doanh nghiệp”, ông Thành nói.

Để ngăn chặn hiệu quả thuốc lá nhập lậu, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất trong nước, Hiệp hội Thuốc lá Việt Nam kiến nghị: Thuốc lá lậu phải được tiêu hủy 100%, không đấu giá để tiêu thụ nội địa hoặc tái xuất. Hiệp hội sẽ hỗ trợ 4500 đồng/bao cho công tác bắt giữ, tiêu hủy thuốc lá điếu nhập lậu.

Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, thống nhất các quy định pháp lý về xử lý thuốc lá nhập lậu tại: Bộ Luật Hình sự, Luật Đầu tư, Công văn số 06 ngày 6/1/2016 của TANDTC theo hướng sẽ xử lý hình sự đối với hành vi buôn lậu thuốc lá theo số lượng bao thuốc bị bắt giữ (1500 bao trở lên).

Đồng thời Hiệp hội kiến nghị Chính phủ trình Quốc hội sử Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá, cho phép chuyển việc Quản lý Quỹ phòng chống tác hại của thuốc lá để phù hợp với chức năng quản lý chuyên môn và trích 50% Quỹ cho công tác đấu tranh phòng chống thuốc lá nhập lậu, hỗ trợ kinh phí, trang thiết bị, phương tiện, biên chế cho các lực lượng trực tiếp thi hành công tác chống buôn lậu thuốc lá.

Ông Lê Văn Hiểu, Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ VN, Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Đà Nẵng cho rằng, sau một năm kể từ hội nghị Thủ tướng với DN, chuyển biến lớn nhất cần đề cập đến chính là tư duy của Chính phủ, của chính quyền địa phương, chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy phục vụ.

Theo ông Hiểu, chính quyền đã đồng hành cùng DN, có chiến lược cụ thể cho DN tại các địa phương. Trong những năm tới, nếu tiếp tục thay đổi tư duy theo chiều hướng này thì Chính phủ sẽ làm tốt việc đồng hành cùng DN.

Bên cạnh đó, vấn đề số hóa, cụ thể là vấn đề thuế, hải quan đã được chính quyền chú ý hơn, tạo sự đồng thuận của DN. Môi trường kinh doanh thay đổi theo chiều hướng tốt, chính quyền địa phương sẵn sàng giải quyết các kiến nghị của DN đến cùng. Môi trường đầu tư cũng có nhiều chuyển biến tích cực khi các địa phương tự tổ chức hội thảo kêu gọi đầu tư và ngày càng minh bạch.

Đại diện Hiệp hội Doanh nhân trẻ Đà Nằng cho rằng, hiện nay việc thanh tra, kiểm tra DN chưa có dấu hiệu giảm bớt, tuy nhiên Chính phủ đã có nhiều biện pháp nhằm minh bạch với DN. Nếu trong những năm tới, Chính phủ tiếp tục tăng cường sự minh bạch, nhất là minh bạch thuế, hóa đơn từ những DN nhỏ như đưa phần mềm thuế, xuất hoá đơn đến tận những DN này thì sẽ không chỉ tăng thêm nguồn thu cho Chính phủ mà còn tạo sự minh bạch trong các hoạt động của DN.

Bên cạnh đó, cần có giải pháp để sử dụng được nguồn lực chung của Nhà nước và DN. Chẳng hạn việc nhà nước hiện nay còn có nhiều nhà máy, xí nghiệp bỏ hoang, cần xem xét cho DN tư nhân thuê để tránh tình trạng lãng phí cũng như hỗ trợ DN sản xuất.

Theo ông Lê Văn Hiểu, cụm từ  DN nhà nước và DN tư nhân hiện nay ở nhiều chính sách đã tạo ra sự phân biệt trong đầu tư, sản xuất. Để xóa bỏ sự phân biệt này cần rà soát, sửa đổi chính sách để tạo sự công bằng giữa các DN.

Cuối cùng, mỗi một lần Thủ tướng gặp gỡ DN cần có một thông điệp rõ ràng trước cuộc gặp và kết luận cụ thể sau cuộc gặp để dẫn dắt DN, khơi gợi hướng phát triển của DN trong năm. Điều này không chỉ tạo hiệu ứng cho 2.000 DN tham gia gặp gỡ Thủ tướng mà còn tạo hiệu ứng cho toàn bộ DN cả nước.

Theo ông Đường Trọng Khang, Phó Chủ tịch Hiệp hội tỉnh Vĩnh Phúc, những phản ánh của doanh nghiệp thông qua Hiệp hội Doanh nghiệp được truyền tải tới chính quyền các cấp, song việc nghiên cứu giải quyết của chính quyền và các cơ quan chức năng rất chậm hoặc không giải quyết. Từ đó làm cho các doanh nghiệp chán nản, không muốn phản ánh, uy tín của Hiệp hội với các doanh nghiệp cũng từ đó giảm sút.

Ông Khang cho biết, các doanh nghiệp vẫn phản ánh là, một số cán bộ của một số ngành vẫn thích “hành”, thích “quản lý” doanh nghiệp, không coi trọng ý thức phục vụ doanh nghiệp như Thủ tướng đã nói.

Bên cạnh đó, đại diện Hiệp hội DN Vĩnh Phúc cho rằng, các Bộ, ngành khi soạn thảo Nghị định, thông tư hướng dẫn cần rõ ràng, cụ thể, dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hiện không nên dùng từ đa nghĩa. Hết sức tránh tình trạng “bảo thủ” “lợi ích ngành” khi ban hành cơ chế, chính sách.

Phải hết sức coi trọng, lắng nghe ý kiến phản hồi từ các doanh nghiệp, nghiên cứu giải quyết những kiến nghị của doanh nghiệp kịp thời, thỏa đáng. Hết sức tránh tình trạng bao biện “giải thích” nhiều mà “không giải quyết”.

Đặc biệt, để môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng được cải thiện và tốt lên cần phải chú trọng cả khâu “kêu gọi đầu tư” và phục vụ doanh nghiệp “sau đầu tư”. Các hoạt động phục vụ doanh nghiệp sau đầu tư, dịch vụ sau đầu tư là vô cùng quan trọng. Nếu làm tốt hai khâu này sẽ có sức lan tỏa rất tốt để kêu gọi đầu tư, đặc biệt là kêu gọi đầu tư với các doanh nghiệp FDI.

Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng ở Trung ương và địa phương, cần làm tốt khâu dự báo, dự đoán và thường xuyên thông báo để các doanh nghiệp biết khi họ hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh – Phó Chủ tịch Hiệp hội DN tỉnh Vĩnh Phúc nói.

Theo ông Phạm Sỹ Liêm, Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, môi trường kinh doanh hiện nay được cải thiện nhiều, điển hình như xoá bỏ điều kiện đầu tư, kinh doanh quy định trong các Thông tư của các Bộ hay trong Quyết định của UBND tỉnh, Quốc hội ban hành danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện...

Vì thế, trong một năm số DN đăng ký thành lập mới vượt qua mức 10 vạn, số vốn đăng ký tăng nhiều, nhất là trong thị trường bất động sản.

Tuy vậy, kết quả vẫn chưa đạt được kỳ vọng, một số mặt vẫn còn yếu kém như vấn đề nộp thuế, phá sản doanh nghiệp, giấy phép xây dựng...

Lãnh đạo Tổng hội Xây dựng Việt Nam cho rằng, chúng ta cần tiếp tục làm rõ mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường, Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào thị trường.

Theo ông, nên từ bỏ phương thức ban đầu quy định hết sức gò bó rồi nới lỏng dần theo đề nghị của DN, mà nên làm ngược lại, lúc đầu quy định hết sức thoải mái rồi căn cứ vào vào sự xuất hiện các tiêu cực của thị trường mà thắt lại dần để ngăn chặn.

Đồng thời, nên rà soát lại chế độ phân cấp trong quản lý nhà nước về đầu tư, kinh doanh: Nhiều địa phương đã không thực hiện tốt nhiệm vụ được phân cấp. Trong thời đại công nghệ thông tin, Chính phủ có điều kiện trực tiếp quản lý nhiều việc mà không cần phân cấp, không sợ quan liêu trì trệ - Ông Phạm Sỹ Liêm bày tỏ.

Ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch Hiệp hội DNNVV Hà Nội chia sẻ: Theo ông, trong thời buổi kinh tế khó khăn như hiện nay, ngay cả các DN lớn cũng gặp khó khăn về vướng mắc thủ tục hành chính, doanh thu và chi phí sản xuất, nhân sự… chứ chưa nói đến các DN nhỏ và vừa, DN khởi nghiệp.

Chủ tịch Hiệp hội DNNVV Hà Nội cho rằng, các khó khăn này là luôn luôn hiện hữu và DN quy mô càng nhỏ thì càng khó tiếp cận vốn vay, tỷ trọng doanh thu đầu ra để bù đắp chi phí đầu vào càng thấp, lợi nhuận biên mỏng.

Phần nữa cũng vì DN nhỏ, nguồn lực mỏng nên hiểu biết về thị trường, tình hình kinh doanh, quy trình làm việc chưa chuyên nghiệp nên cũng khó khăn khi làm việc với đối tác, bạn hàng và cả cơ quan quản lý.

Ông Mạc Quốc Anh cho rằng, bộ máy quản lý vẫn chưa vận hành đồng bộ hoàn toàn, có triển khai nhưng chưa quyết liệt và trình độ quản lý hành chính chưa cao.

Ông lấy ví dụ từ phản ánh của DN rằng, việc thực hiện kiểm dịch hàng hóa xuất nhập khẩu như hiện nay đang gây khó khăn cho DN; mặc dù thủ tục hải quan đã giảm bớt giấy tờ, tuy nhiên chưa đồng bộ với các cơ quan liên quan như ngân hàng và các cơ quan Thuế nên có những giấy tờ mà cơ quan Hải quan không cấp nhưng ngân hàng hoặc cơ quan Thuế vẫn yêu cầu.

Ông Mạc Quốc Anh cho biết, các DN đặt kỳ vọng nhiều vào hội nghị Thủ tướng với DN 2017 năm nay. Nghị quyết đã đề ra, chương trình hành động đã có và triển khai được một năm, theo ông “chúng ta cần sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa bộ máy quản lý hành chính và DN mà hội nghị Thủ tướng sẽ là bước nền để đưa cơ quan Nhà nước gần lại với DN hơn. Quan hệ giữa hai bên có chặt chẽ thì Nhà nước mới có thể tháo gỡ khó khăn được cho DN”.

Ông Dương Tuấn Anh, Chủ tịch Hiệp hội DN tỉnh Thừa Thiên - Huế cho biết, Hiệp hội sẽ tiếp tục kiến nghị Chính phủ nghiên cứu chỉ đạo, hỗ trợ thành lập các trung tâm hỗ trợ DN thành một hệ thống toàn quốc từ Trung ương đến địa phương.

Theo ông, Nghị quyết 35/NQ-CP đã đề cập một cách khá toàn diện các chính sách, trách nhiệm của Bộ, ngành, địa phương để hỗ trợ DN. Tuy nhiên, nội dung về chỉ đạo thành lập và hoạt động của các trung tâm hỗ trợ DN vẫn chưa được thực hiện trong thực tế.

Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ cho DN vẫn thiên về ưu đãi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, ít tạo điều kiện cho DN tư nhân, DN vừa và nhỏ Việt Nam phát triển.

Ông Dương Tuấn Anh cho rằng, việc thu hút các DN lớn từ nước ngoài vào đầu tư là rất cần thiết, nhưng khi ký kết hợp tác cần đưa điều kiện các DN địa phương có thể liên kết làm được gì, người lao động địa phương tham gia được gì...

“Do vậy, rất cần một Trung tâm có tính pháp lý cao theo quy định của Chính phủ để làm nhiệm vụ kết nối và khi mời các nhà đầu tư vào đầu tư tại địa phương” – ông Dương Tuấn Anh nói.

Bên cạnh đó, đại diện Hiệp hội DN Thừa Thiên - Huế cũng kiến nghị Chính phủ hoàn chỉnh và sớm trình Quốc Hội thông qua Luật hỗ trợ DN nhỏ và vừa, bởi đây là văn bản luật thiết thực mà cộng đồng DN nhỏ và vừa của cả nước đang rất trông chờ được sự hỗ trợ các điều kiện để phát triển.

Ông cho biết thêm, “Hiệp Hội chúng tôi đã nhiều lần kiến nghị là dự thảo cuối cùng mà Chính phủ trình Quốc hội cần tiếp thu ý kiến của cộng đồng DNNVV trong nước để bổ sung những quy định thật cụ thể, có tính khả thi cao, tránh những quy định quan tâm chung chung cần có nhiều cơ quan khác hướng dẫn với nhiều thủ tục rườm rà, khó thực hiện”.

Nhìn nhận sau một năm, kể từ khi Hội nghị Thủ tướng với DN lần thứ nhất diễn ra, ông Nguyễn Trọng Điều, Chủ tịch Hội Doanh nhân Tư nhân Việt Nam cho rằng, môi trường kinh doanh, hoạt động của DN đã có những chuyển biến tích cực, thể hiện qua những kết quả phát triển kinh tế-xã hội năm 2016 và 4 tháng đầu năm 2017.

Tuy nhiên, theo ông, môi trường kinh doanh vẫn còn những “hạt sạn”, thể hiện qua công bố mới đây về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh 2016 (PAPI).

Chủ tịch Hội Doanh nhân Tư nhân Việt Nam cho rằng, vấn đề hiện nay là cần nhanh chóng cụ thể hóa những cơ chế, chính sách mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá XII của Đảng đã đề ra là: Chính sách đất đai; chính sách tài chính, tín dụng; chính sách lao động - tiền lương; chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ; chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại.

Theo ông, phải rà soát và xoá bỏ những văn bản quy định đi ngược lại yêu cầu, nhiệm vụ khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, trước mắt là những quy định hạn chế quyền kinh doanh của DN tư nhân, những quy định làm tăng chi phí đầu vào của DN.

Đặc biệt, quản lý Nhà nước phải theo kịp sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), không vì chưa quản lý được mà hạn chế, gây khó hoặc cấm các hoạt động liên quan đến ứng dụng tri thức và công nghệ cao để tạo ra nền kinh tế phát triển nhanh, tính cạnh tranh cao thay thế các giá trị truyền thống như lao động, tài nguyên.

Có như vậy mới giúp DN đua tranh trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0 với tốc độ và sức sáng tạo là yếu tố quyết định thành công. Bên cạnh đó cần thấy hết thách thức với yêu cầu cao về chất lượng nguồn nhân lực và an ninh mạng – Chủ tịch Hội Doanh nhân Tư nhân nói.

Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội DN nhỏ và vừa Việt Nam cho rằng, mặc dù Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách tháo gỡ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, tuy nhiên khâu thực thi vẫn là khâu yếu nhất.

Điều này thể hiện ở sự thờ ơ của những người thừa hành công vụ không hướng dẫn hoặc hướng dẫn không đầy đủ cho doanh nghiệp, tìm cách bắt lỗi doanh nghiệp, quan liêu, chưa coi doanh nghiệp là đối tượng phục vụ.

Theo ông Thân, chính vì sự yếu kém trong khâu thực thi đã dẫn đến nếu doanh nghiệp muốn được việc thì phải “chung chi” theo kiểu “của công chia ba, của nhà chia đôi”, đây là vấn đề tương đối phổ biến.

Từ phía doanh nghiệp, chạy theo xu thế kinh doanh bằng “quan hệ” thay thế cho năng lực yếu kém của mình nên đã chủ động “chi ngầm” để có được các thuận lợi trong kinh doanh; một số doanh nghiệp do bị sức ép “đòi hỏi” từ phía cán bộ, công chức nên phải “chi ngầm” để được việc.

Để khắc phục hiện tượng này phải xuất phát từ cả hai phía là cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp. Chỉ như vậy mới tạo nên một môi trường kinh doanh bình đẳng, an toàn và bền vững.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần phải tạo thói quen ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao văn hóa kinh doanh, với sứ mệnh phát triển sản xuất kinh doanh làm giàu chân chính là yêu nước, thực hiện nói không với tiêu cực, chủ động tăng cường năng lực quản trị, chung tay cùng với Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực trong kinh doanh.

Đồng thời, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần tiếp tục có giải pháp tăng cường kỷ luật và trách nhiệm hướng dẫn của công chức khi tiếp xúc với doanh nghiệp, nêu cao tinh thần lấy doanh nghiệp làm trọng tâm phục vụ - Chủ tịch Hiệp hội DN nhỏ và vừa Việt Nam đề nghị.

Theo Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc, một năm sau Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp lần thứ nhất năm 2016, 75% doanh nghiệp đánh giá các cơ quan chính quyền có chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, gần 30% doanh nghiệp đánh giá chuyển biến còn chưa đạt yêu cầu.

Môi trường đầu tư kinh doanh còn nhiều khó khăn, nhưng kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp 2016 đã có khởi sắc hơn và niềm tin của doanh nghiệp vào triển vọng kinh doanh tốt hơn năm 2015. Cụ thể, 48% doanh nghiệp dân doanh cho biết sẽ mở rộng quy mô kinh doanh trong 2 năm tới. Tỷ lệ trong khu vực FDI cũng tương tự.

“Năm qua đã có những đột phá về tư duy, quan điểm, cách thức hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, để chuyển tư duy, quan điểm, cách thức trở thành hành động cụ thể trong thực tiễn cần độ trễ nhất định, nhiều vướng mắc liên quan tới pháp luật chứ không chỉ trong điều hành, nên cần nhiều thời gian hơn”, ông Lộc nói.

Đặc biệt, đại diện VCCI cho biết theo cam kết của chính quyền các địa phương thì tới năm 2020, cả nước sẽ có khoảng 1,4 triệu doanh nghiệp. Như vậy, mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2020 mà Chính phủ đề ra là hoàn toàn có thể đạt được. 

Ông Vũ Tiến Lộc cũng cho biết thêm, trong số 320 kiến nghị doanh nghiệp nêu tại hội nghị năm 2016 và 100 kiến nghị gửi bổ sung sau đó, phần lớn đã được giải quyết. Số còn lại đang được nghiên cứu giải quyết, nhất là những kiến nghị liên quan tới quy định của pháp luật cần sửa đổi.

Hiện, VCCI đã nhận được khoảng 200 kiến nghị của các doanh nghiệp gửi tới Hội nghị năm nay, liên quan tới nhiều vấn đề. Chẳng hạn, mặc dù nhiều ngân hàng giảm lãi suất, nhưng các doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận nguồn tín dụng.

Nghị quyết 35 yêu cầu chỉ thanh tra, kiểm tra 1 năm 1 lần, nhưng thực tế doanh nghiệp vẫn bị thanh tra, kiểm tra khá nhiều, có doanh nghiệp bị tới 6,7 lần một năm. Trong số các doanh nghiệp bị thanh tra, kiểm tra nhiều lần, thì có một nửa nói rằng việc thanh tra, kiểm tra là chồng chéo.

Theo ông Lộc, việc thực hiện kiến nghị giảm chi phí cho các DN như: Giảm lãi suất, tiếp cận tín dụng, bảo hiểm, logistic... vẫn là một yêu cầu quan trọng. Bên cạnh đó DN cũng kiến nghị về vấn đề thủ tục phá sản DN; giải quyết tranh chấp; thanh tra, kiểm tra...

Ông Vũ Tiến Lộc cũng cho rằng, cần hết sức tránh tình trạng cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu vào thị trường. “Chúng ta sốt sắng phát triển thị trường, phát triển doanh nghiệp, nhưng phải bằng các biện pháp kinh tế, bằng chính sách để thúc đẩy sự phát triển, chứ không phải nhà nước trực tiếp can thiệp bằng những biện pháp hành chính – điều này có thể gây ra những hậu quả về mặt dài hạn”, ông Lộc kiến nghị.

Theo đó, Chính phủ phục vụ doanh nghiệp nhưng không làm thay doanh nghiệp, làm thay thị trường. Cùng với việc đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, nhà nước cần “thoái sức” ra khỏi các dịch vụ công, tức là đẩy mạnh xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công. Ngay cả trong việc phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp, nhà nước cũng không nên không hành chính hóa các hoạt động tư vấn, đào tạo, xúc tiến… mà nên khuyến khích phát triển các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, với sự cạnh tranh của thị trường.

Ý KIẾN CỦA CÁC CHUYÊN GIA

Ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Thương mại, thành viên Hội đồng Quốc gia về Phát triển bền vững và Nâng cao năng lực cạnh tranh: Vấn đề hoàn thiện thể chế có ý nghĩa quan trọng, cấp bách, tốc độ và trình độ phát triển của một lĩnh vực, một quốc gia chủ yếu là do thể chế quyết định.

Thể chế kinh tế thị trường (KTTT) ở nước ta từng bước được hoàn thiện, môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng, minh bạch, tạo điều kiện tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp.

Tuy nhiên, nền KTTT ở nước ta vẫn còn những bất cập, làm phát sinh những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Việc sử dụng và phân bổ nguồn lực chưa hiệu quả. Các loại thị trường, các yếu tố của KTTT chưa hình thành đầy đủ và vận hành đồng bộ. Giá một số loại dịch vụ vẫn chưa theo nguyên tắc thị trường. Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) tuy chiếm giữ nguồn lực lớn nhưng kinh doanh kém hiệu quả, thất thoát lớn, chưa làm được vai trò hỗ trợ, dẫn dắt khu vực tư nhân, thậm chí còn chèn lấn sự phát triển của khu vực này. Môi trường nhiều nơi bị ô nhiễm nghiêm trọng. Chưa hình thành được thị trường cạnh tranh ở không ít các ngành sản xuất và dịch vụ. Nền kinh tế phát triển không bền vững. Cần đánh giá đầy đủ thực trạng này để có những quyết định kịp thời và chính xác.

Đối chiếu thực tiễn với chuẩn mực chung nêu trong Nghị quyết Đại hội XII, cho đến nay, thị trường lao động có sự phát triển khá nhất nhưng do chế độ tiền lương còn bất hợp lý nên không bảo đảm sự dịch chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao đến các cơ quan quản lý nhà nước-các cơ quan có vai trò quyết định trong việc hoạch định và thực thi chính sách. Thị trường vốn chưa phát triển, còn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tín dụng, chẳng những gây áp lực lên các ngân hàng thương mại mà còn rủi ro lớn. Thị trường khoa học công nghệ vẫn còn rất sơ khai…

Trong nhiều lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, chúng ta vẫn chưa tạo lập được thị trường cạnh tranh công bằng. Vẫn có sự phân biệt đối xử nhất định giữa 3 khu vực doanh nghiệp, doanh nghiệp FDI được ưu ái hơn, tiếp đến là DNNN; khu vực tư nhân rất khó tiếp cận các nguồn lực. Từ đó, vấn đề mấu chốt là phải khắc phục tình trạng này. Phải đẩy mạnh cải cách DNNN, phát triển mạnh khu vực tư nhân. Cạnh tranh sẽ thúc đẩy các thị trường phát triển.

Cải cách DNNN không chỉ là cổ phần hóa, tuy cổ phần hóa là nội dung quan trọng nhưng điều còn quan trọng hơn là áp đặt kỷ luật thị trường lên hoạt động của DNNN, đặt DNNN vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Từ đó, đổi mới quản trị và nâng cao hiệu quả của DNNN.

Ngoài ra, cần hoàn thiện cơ chế chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp. Cần lưu ý là kinh tế thị trường không phủ nhận DNNN, nhất là khi khu vực tư nhân còn nhỏ bé; vai trò của DNNN trong điều kiện này là thực hiện mục tiêu chính sách công mà khu vực tư nhân không muốn làm hoặc chưa đủ sức làm. Nhưng, theo tôi, trước khi sử dụng DNNN thực hiện mục tiêu đó, cần đặt câu hỏi: Có cơ chế nào, lực lượng nào thực hiện tốt hơn không?

Chúng ta vui mừng nhận thấy tư duy về kinh tế tư nhân của Đảng ngày càng phát triển, theo hướng phù hợp hơn với cuộc sống. Từ chỗ thiên về đề cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trong đó DNNN là lực lượng nòng cốt, đến nay Đảng đánh giá kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của sự phát triển. Tôi cho rằng phải coi kinh tế tư nhân của Việt Nam là động lực chính. Vì vậy, bàn các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân vào thời điểm này là rất cần thiết, không thể chậm hơn.

Góp ý về những giải pháp phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam, trả lời phỏng vấn Báo điện tử Chính phủ, chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành cho rằng có 5 vấn đề mấu chốt nhất.

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống các quy định của pháp luật, gỡ bỏ những gì là rào cản, vướng mắc với doanh nghiệp. Nhiều quy định hiện hành vẫn không phù hợp với cơ chế thị trường, can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp, từ đó không chỉ gây khó khăn cho doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện cho cán bộ, công chức nhũng nhiễu.

Thứ hai, cần đẩy mạnh chống tham nhũng. Bởi chi phí không chính thức đang là một gánh nặng với các doanh nghiệp. “Trên thị trường, nhiều khi chỉ hơn kém 0,5% chi phí thôi đã đủ tạo nên sự khác biệt lớn về khả năng cạnh tranh. Trong khi đó tại Việt Nam, gánh nặng chi phí không chính thức vẫn rất lớn”, ông Thành nói.

Thứ ba, cần giảm lãi suất vay vốn. Trong khi ở nhiều nước, lãi suất chỉ ở mức 2-3% thì ở Việt Nam, lãi suất phổ biến hiện nay vẫn ở mức 9-10%, nên doanh nghiệp Việt Nam rất khó cạnh tranh.

Thứ tư, có thể tham khảo mô hình cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ của Hoa Kỳ (U.S. Small Business Administration – SBA), với các hoạt động hỗ trợ thiết thực, cụ thể cho doanh nghiệp nhỏ. Chẳng hạn, khi một doanh nghiệp muốn khởi nghiệp thì sẽ giúp xem xét ý tưởng khởi nghiệp đó có khả thi không, có trùng với các ý tưởng khác không… để tránh đi vào con đường người khác đã đi.

Thứ năm là tăng cường đào tạo, có thể thông qua các lớp học ngắn hạn để nâng cao trình độ cho các doanh nhân. Điều này đòi hỏi một chiến lược, kế hoạch đào tạo tổng thể của nhà nước và có sự tham gia của các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu….

Theo CEO. Đặng Đức Thành, Ủy viên BCH Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, giải pháp nhanh nhất và hiệu quả nhất cho cân đối thu chi ngân sách quốc gia, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội tốt nhất đó là hướng Việt Nam trở thành quốc gia khởi nghiệp; cả nước cần tập trung phục vụ cho doanh nghiệp phát triển.

Hình dung quốc gia như là một công ty mẹ, chúng ta sẽ thấy vấn đề quan trọng nhất là nguồn nhân lực, cụ thể là nguồn vốn để thực hiện các mục tiêu của kế hoạch đề ra. Trong số các nguồn vốn của quốc gia như tài nguyên, con người, đất đai, vốn huy động qua ngân hàng, qua thị trường chứng khoán…, thì nguồn vốn thu từ hoạt động của các doanh nghiệp phát triển vào ngân sách là nguồn lực có tiềm năng vô hạn. Doanh nghiệp càng phát triển số lượng và chất lượng; nguồn thu ngân sách sẽ tăng lên, trong khi chi phí hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển không lớn.

Với quy mô dân số hiện nay, so với các quốc gia tiên tiến của thế giới, Việt Nam cần ít nhất 2 triệu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Quan trọng nhất, khi sử dụng nguồn thu thuế từ doanh nghiệp, nhà nước không phải hoàn trả và không phải đóng phí; trong khi sử dụng các nguồn vốn khác đều phải hoàn trả và tốn phí rất cao.

Mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã xác định rất rõ mục tiêu xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành động, phục vụ người dân và doanh nghiệp phát triển nhưng nhiều trường hợp cán bộ vẫn chưa thông và do đó nhiều nơi vẫn còn gây khó khăn cho doanh nghiệp. Như vậy, cần thiết phải phân tích rõ ràng việc “cởi trói” cho doanh nghiệp.

Chi phí vốn vay, nguồn nhân lực và khả năng quản trị, công nghệ, thị trường và thể chế chính sách là 5 vấn đề cốt lõi ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của DN Việt Nam hiện nay.

TPHCM tuy chỉ chiếm 0,6% diện tích tự nhiên, 8,8% dân số của cả nước nhưng lại đóng góp tới 22% GPP và 30% tổng thu ngân sách cả nước.

Có rất nhiều nguyên nhân khiến trong nhiều năm qua TPHCM giữ vững vai trò là đầu tàu kinh tế của cả nước. Nhưng nguyên nhân quan trọng là đã xây dựng và phát triển được đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp mạnh. Hiện TPHCM có khoảng 200.000 doanh nghiệp đang hoạt động, chiếm 1/3 số lượng doanh nghiệp đang hoạt động của cả nước.

Bài học rất rõ ràng từ TPHCM là địa phương nào xây dựng được đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp đông đảo, chất lượng thì nơi đó phát triển mạnh về mọi mặt, đóng góp nhiều cho đất nước không chỉ về ngân sách.

… tiếp tục cập nhật

Theo Cổng TTĐT Chính phủ