Hướng dẫn quy định của Bộ luật Dân sự

  1. Nội dung: “Trong tố tụng hành chỉnh việc cá nhân là người khởi kiện ủy quyền cho pháp nhân tham gia tố tụng vụ án có vi phạm pháp luật hay không? Được chấp nhận hay không?

Vấn đề pháp nhân là người đại diện theo ủy quyền đã được quy đinh tại Điều 138 và các quy định khác có liên quan của Bộ luật dân sự năm 2015. về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính, tại Điều 60 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 không quy định rõ vịệc người đại diện theo ủy quyền có bao gồm pháp nhân hay không. Tuy nhiên, theo Điều 371 của Luật này thì Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, trừ quy định liên quan đến pháp nhân là người đại diện, người giám hộ có liên quan đến quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017. Như vậy, với quy định tại Điều 371 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có thể hiểu kể từ ngày 01/01/2017 thì việc ủy quyền cho pháp nhân tham gia tố tụng hành chính được áp dụng.

Tuy vậy, để thống nhất trong áp dụng pháp luật, đề nghị Văn phòng Chính phủ lấy ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề này.

  1. Nội dung: “Bất kỳ nhân sự nào của Công ty TNHH một thành viên thương mại dịch vụ đại diện tư vấn Hậu Công Lý hoặc Công ty Luật do chính Công ty cử làm nhiệm vụ mà Công ty nhận ủy quyền có vi phạm luật hay không? Được chấp nhận hay không? ”

về việc nhân sự trong pháp nhân thực hiện công việc mà pháp nhân được ủy quyền, Bộ Tư pháp cho rằng cần phân tách các trường hợp sau:

Thứ nhất, đối với pháp nhân là doanh nghiệp được đăng ký hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp, không phải là công ty luật được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Luật sư thì việc nhân sự trong pháp nhân thực hiện công việc mà pháp nhân được ủy quyền thực hiện theo pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan.

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 về thời hạn đại diện và Điều 141 về phạm vi đại diện (Điều 137). Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định công ty trách nhiệm hữu hặn và công ty cồ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quàn lý và quyền, nghĩa vụ cùa người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (khoản 2 Điều 13).

Vì vậy, trong trường hợp này, Bộ Tư pháp cho rằng doanh nghiệp khi nhận làm đại diện theo ủy quyền của cá nhân, pháp nhân khác theo quy định, thì doanh nghiệp có thể cử nhân sự trong nội bộ doanh nghiệp làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thực hiện các công việc dược ủy quyền, việc thực hiện công việc này cần căn cử vào điều lệ của doanh nghiệp, văn bản ủy quyền và pháp luật có liên quan điều chỉnh.

Thứ hai, đối với pháp nhân là công ty luật được thành lập theo Luật Luật sư, việc nhận đại diện ủỵ quyền tham gia tố tụng thuộc phạm vi hành nghề luật sư theo quy định tại Điễu 22. ciỉạ Luật Luật sư.

Theo Điều 26 của Luật Luật sư thì công ty luật tiếp nhận và thực hiện vụ việc theo yêu cầu của khách hàng thông qua hợp đồng dịch vụ pháp lý ký kết giữa hai bên. Trong trường hợp Công ty luật nhận ủy quyền của khách hàng để thực hiện một giao dịch, công việc nào đó phải căn cứ vào nội dung cụ thể của hợp đồng dịch vụ pháp lý, văn bản ủy quyền, đảm bảo phù hợp với pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư và pháp luật khác có liên quan. Hơn nữa, Công ty luật còn có Điều lệ Công ty, nên việc phân công hoặc cử người thực hiện nhiệm vụ của Công ty cũng phải căn cứ vảo Điều lệ Công ty và đảm bảo phù hợp, thống nhất với các quy định pháp luật về luật sư và pháp luật khác có liên quan.

Bên canh đó, cũng lưu ý thực tiễn thời gian qua, Bộ Tư pháp nhận được phản ánh của một số địa phương còn có tình trạng cấp đăng ký cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ngành, nghề tư vấn pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý, công chứng, chứng thực không phù hợp với pháp luật chuyên ngành. Theo quy định tại Điều 7 của Luật Đầu tư năm 2014 và Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (Phụ lục 4 của Luật Đầu tư) thì hành nghề luật sư là ngành, nghề đâu tư kinh doanh có điều kiện. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp hiện chưa có quy định cụ thể về trường hợp một doanh nghiệp đăng ký nhiều lĩnh vực hành nghề, trong đó có lĩnh vực hoạt động pháp luật (mã ngành 69101) thì việc thành lập doanh nghiệp này phải tuân theo quy định của Luật Doanh nghiệp hay quy định của lĩnh vực chuyên ngành liên quan (Luật Luật sư). Như vậy, cùng một hoạt động đại diện, tư vấn pháp lý được quy định trong hai luật với tên gọi ngành nghề khác nhau, do hai chủ thể khác nhau thực hiện; để thành lập, đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư thì phải có luật sư là người có đủ điều kiện cung cấp dịch vụ pháp lý, trong khi đó doanh nghiệp thông thường cũng có thể đãng ký hoạt động pháp luật mà không cần người có đủ tiêu chuẩn hành nghề luật sư. Nhằm xử lý dứt điểm tình trạng nêu trên, Bộ Tư pháp đã có Công văn 2481/BTP- BTTP ngày 06/7/2018 đề nghi Bộ Kế hoạch và Đầu tư có văn bản hưóng dẫn, chỉ đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện rà soát các doanh nghiệp đã đăng ký bảo đảm hoạt động đúng quy định pháp luật về luật sử, tư vấn pháp luật, công chứng, chứng thực và pháp luật liên quan trong quá trình đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp theo mã ngành, nghề “hoạt động pháp luật” (mã 6910); yêu cầu các đơn vị, tổ chức đã đăng ký lĩnh vực này phải làm thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh và không thực hiện đăng ký doanh nghiệp mới trong lĩnh vực này. Đồng thời, tiếp tục phối hợp rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhằm chuẩn hóa danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và danh mục ngành, nghề trong Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam cho phù hợp với pháp luật chuyên ngành, yêu cầu thực tiễn hiện nay cũng như thông lệ quốc tế.