Tổng Thư ký Liên hợp Quốc Antonio Guterres từng nhận định hồi tháng 04/2020 rằng COVID-19 là thách thức toàn cầu lớn nhất kể từ Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Một năm sau, đầu tháng 03/2021 này, Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới thậm chí còn cho rằng COVID-19 gây đau thương hơn hậu quả của Thế chiến II trên nhiều phương diện. Thế giới của ngày hôm nay vẫn ở trong “giai đoạn cấp tính” của đại dịch và những mất mát về sinh mạng, những vết thương tâm lý dai dẳng vẫn sẽ còn cần thời gian rất lâu để có thể chữa lành.

Bức tranh doanh nghiệp trước tác động của COVID-19

Ở thời điểm chúng ta tham dự buổi Hội thảo này, toàn cầu vẫn đang gồng mình trong cuộc chiến chống lại đại dịch COVID-19. Tính đến sáng nay 12/03/2021, theo Tổ chức Y tế Thế giới, toàn cầu ghi nhận khoảng 117 triệu ca bệnh, trong đó xấp xỉ 2,6 triệu người đã tử vong. Dù vắc-xin đang được gấp rút tiêm chủng ở nhiều quốc gia, nhân loại vẫn đứng trước những rủi ro to lớn trước diễn biến khó lường của đại dịch, đặc biệt là sự xuất hiện những biến chủng nguy hiểm của vi-rút.

Trong khi không một quốc gia nào có thể khẳng định đã đánh bại hoàn toàn được vi-rút, chỉ một vài nước đạt được những thành tựu nhất định trong thực hiện nhiệm vụ kép: vừa kiểm soát dịch bệnh đồng thời vẫn duy trì sự phát triển kinh tế. Việt Nam là một trong số các quốc gia ít ỏi này. Với dân số khoảng 98 triệu người, Việt Nam chỉ ghi nhận 2.526 ca nhiễm bệnh và 35 ca tử vong tính đến hết ngày 10/03/2021. Những con số này nhỏ hơn rất nhiều nếu nhìn sang Indonesia - quốc gia láng giềng trong khu vực với 1,38 triệu ca bệnh và 37.266 người tử vong trên quy mô dân số khoảng 267 triệu người. Việt Nam là một trong 10 quốc gia trên thế giới và cũng là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á đạt được tăng trưởng kinh tế dương trong năm 2020.

Dù vậy, chúng ta đều hiểu rằng vẫn còn quá sớm để khẳng định Việt Nam đã chiến thắng COVID-19. Những đợt bùng phát trở lại của dịch bệnh vào giữa tháng 07/2020 tại thành phố Đà Nẵng hay cuối tháng 01/2021 vừa qua tại tỉnh Hải Dương là sự nhắc nhở rằng tình hình dịch bệnh vẫn phức tạp, và tin tức về COVID-19 sẽ tiếp tục “phủ bóng” lên cuộc sống thường ngày của mỗi gia đình, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh  của mỗi doanh nghiệp và sự vận hành của Chính phủ.

Đối với nền kinh tế, những nghiên cứu và đánh giá sơ bộ trong thời gian qua của nhiều cơ quan và tổ chức cho thấy một bức tranh chung là sự tàn phá nặng nề của đại dịch đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người lao động tại Việt Nam. Trong cuộc khủng hoảng y tế nghiêm trọng này, các doanh nghiệp đã chịu rất nhiều tổn thất và sự chống chịu kiên cường của cộng đồng doanh nghiệp đang đứng trước những giới hạn.

Cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, đồng thời cũng là chủ thể quan trọng khi ứng phó với các vấn đề toàn cầu, trong đó có đại dịch COVID-19. Vậy trong vòng một năm qua, dịch bệnh đã ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp? Họ đã ứng phó ra sao trước đại dịch? Các giải pháp hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam có hiệu quả như thế nào? Và Chính phủ cần thêm những hỗ trợ gì trong thời gian sắp tới? Đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi này là động lực để VCCI phối hợp với Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB) với sự hỗ trợ nguồn lực của Chính phủ Úc tiến hành Báo cáo “Tác động của dịch bệnh COVID-19 đối với doanh nghiệp Việt Nam.”

10.197 doanh nghiệp trên toàn quốc tham gia vào khảo sát đã cung cấp những góc nhìn cụ thể về ảnh hưởng của COVID-19 và cách thức ứng phó của doanh nghiệp.

Kết quả khảo sát cho thấy năm 2020 là một năm đầy khó khăn khi mà gần 90% doanh nghiệp bị tác động nặng nề bởi dịch bệnh với nhiều hệ lụy như giảm sút khả năng tiếp cận khách hàng, mất cân bằng về dòng tiền, chuỗi cung ứng bị gián đoạn. Nhiều doanh nghiệp đã phải cho lao động nghỉ việc, ngừng hoạt động, thậm chí phá sản và đối tượng doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và siêu nhỏ,  các doanh nghiệp trẻ chưa đầy 3 năm tuổi.

Do tác động của Covid, 2020 cũng là năm mà mức tăng trưởng GDP của đất nước ở mức thấp nhất, chưa bằng một nửa so với những năm trước đây, và cũng là năm mà số lượng doanh nghiệp rút khỏi thị trường đạt mức kỷ lục vượt ngưỡng 100 ngàn doanh nghiệp

2020 cũng là năm ghi dấu sự kiên cường của cộng đồng doanh nghiệp để vượt lên hoàn cảnh khó khăn và chúng ta đã phát hiện ra rằng khả năng chống chịu kiên cường đang trở thành một năng lực cạnh tranh cốt lõi của nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp Việt. Doanh nghiệp cũng đã thức tỉnh và ngộ ra nhiều điều qua đại dịch. Doanh nghiệp phải suy ngẫm lại chiến lược, phải tái cấu trúc, đào tạo lại nguồn lao động, chú trọng nhiều hơn đến thị trường nội địa, xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ và chuỗi cũng ứng Việt,  đồng thời với việc đa dạng hoá thị trường tiêu thụ và nguồn cung ứng … Các sáng kiến trong ứng phó với COVID-19 đã được các doanh nghiệp thực hiện. Quá trình chuyển đổi số cũng từng bước được triển khai.  Đó là những bài học và trải nghiệm vô giá từ Covid.

Có được những kết quả đó, ngoài sự chủ động tích cực của cộng đồng doanh nghiệp, có vai trò cổ vũ và yểm trợ của Nhà nước. Các chính sách hỗ trợ và sự đồng hành của Chính phủ trong bối cảnh Covid được các doanh nghiệp đánh giá cao nhất là các chính sách tài khoá như việc giãn, hoãn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập, tiền thuê đất, các chính sách nới lỏng về tín dụng của các ngân hàng. Chính sách cho vay với lãi suất bằng 0% để trả lương cho người lao động được cho là khó tiếp cận, nhưng các doanh nghiệp vẫn đánh giá cao sự cần thiết của chính sách này. 75% doanh nghiệp cho rằng các chính sách hỗ trợ của Chính phủ là hữu ích.

Lễ công bố báo cáo "Tác động của dịch bệnh COVID-19 đối với doanh nghiệp Việt Nam: Một số phát hiện chinh từ điều tra doanh nghiệp năm 2020".

Kiến nghị hàng loạt những chính sách

Từ thực tiễn thực hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong thời gian qua, cộng đồng doanh nghiệp cũng kiến nghị bên cạnh các giải trước mắt đã được Chính phủ, các bộ ngành và chính quyền địa phương ban hành như miễn giảm thuế, giãn thuế, gia hạn nộp thuế, giảm lãi suất, giảm các chi phí của hoạt động kinh doanh, cần phải chú ý đến những giải pháp có tính chất hạn dài hơn. Chẳng hạn, Chính phủ cần tăng cường đầu tư công, hoàn thiện các công trình hạ tầng, thực hiện các gói kích cầu cần thiết trong giai đoạn nền kinh tế phục hồi. Doanh nghiệp cũng cho rằng các chính sách kinh tế vĩ mô trong dài hạn cần quan tâm phát triển thị trường nội địa, thúc đẩy sự kết nối giữa doanh nghiệp trong nước với người tiêu dùng hình thành các chuỗi cung ứng Việt. Quan trọng hơn, phần lớn các doanh nghiệp đề nghị cải thiện hệ thống pháp luật và tháo gỡ các nút thắt về thủ tục hành chính để cải thiện môi trường kinh doanh.

Có thể thấy, nếu như các giải pháp về thuế, phí, hỗ trợ tiếp cận về tài khoá tín dụng có dư địa không nhiều vì những giới hạn ngân sách thì những giải pháp cải cách thủ tục hành chính nhìn chung dễ thực hiện hơn, vốn đã được thúc đẩy trong những năm gần đây, rất cần phải được gia tốc. Các doanh nghiệp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách thủ tục hành chính, cải thiện hiệu quả thực thi pháp luật nhằm tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ cho sự phục hồi bền vững của các doanh nghiệp trong quá trình ứng phó với tác động của đại dịch toàn cầu COVID-19. Và đó chính là nền tảng căn bản nhất cho sự phục hồi và phát triển của doanh nghiệp.

Cụ thể, chúng tôi đề nghị:

Thực thi bao giờ cũng là khâu yếu nhất. Vì vậy cần ưu tiên cải thiện năng lực thực thi. Để nâng cao hiệu quả thực thi, các bộ, ngành và chính quyền các địa phương cần tăng cường phổ biến, tuyên truyền chính sách hỗ trợ để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận được các gói hỗ trợ đã ban hành. Trong đó, cần có những hướng dẫn cụ thể, chi tiết và đẩy đủ về các thủ tục, quy trình thực hiện theo hướng đơn giản, dễ thực hiện đối với các doanh nghiệp.

Đối với các chính sách đã ban hành, các bộ, ngành, chính quyền địa phương cần chủ động nắm bắt tình hình triển khai, đặc biệt là những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện để điều chỉnh hoặc kiến nghị điều chỉnh kịp thời và có cách thức hỗ trợ phù hợp đối với các doanh nghiệp ở từng ngành, lĩnh vực và từng giai đoạn, chú trọng các doanh nghiệp thuộc các ngành bị tổn thương nặng nề bởi dịch Covid-19. Cần quan tâm hơn nữa các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, siêu nhỏ bởi khả năng chống chịu kém của nhóm doanh nghiệp này. Nghiên cứu áp dụng thêm một số biện pháp mà các quốc gia khác hiện đang áp dụng như hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp duy trì được tỷ lệ người lao động cao; hỗ trợ chi phí đào tạo tay nghề, nâng cao trình độ cho người lao động.

Cần xây dựng chính sách phát triển công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ theo hướng bớt lệ thuộc vào nguồn cung từ bên ngoài, giảm tình trạng gia công đã kéo dài quá lâu, mặt khác cũng tạo thêm giá trị gia tăng và vị thế tốt hơn của Việt Nam trong các chuỗi cung ứng toàn cầu, tạo thêm cơ hội hưởng lợi từ các FTA đòi hỏi hàm lượng xuất xứ nội địa/nội khối cao. Đại dịch Covid-19 đang tạo cho Việt Nam cơ hội làm việc đó, khi các quốc gia đối tác lớn như Nhật, Mỹ, EU, Úc… đang tìm kiếm nơi để chuyển một phần nguồn cung cho các chuỗi của họ ra khỏi các cứ điểm sản xuất chính. Với một số FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA, Việt Nam càng có cơ hội được chọn, nếu Chính phủ có chính sách, mục tiêu rõ ràng nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Việt Nam và thu hút đầu tư từ các đối tác trên vào những ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên.

Có chính sách tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trụ lại được và có khả năng vượt lên sau dịch Covid-19, đặc biệt về đổi mới sáng tạo, đào tạo nhân lực chất lượng cao, sẵn sàng cho cuộc cạnh tranh mới. Việc này quan trọng không kém việc cứu các doanh nghiệp gặp khó khăn, vì sẽ giúp doanh nghiệp và nền kinh tế sớm vươn lên phục hồi tăng trưởng và bước vào giai đoạn phát triển mới cao hơn. Điều này cũng giúp các doanh nghiệp tìm cơ hội mới trong bối cảnh mới.

Các bộ, ngành có liên quan cần nghiên cứu, kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các gói chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và mở rộng đầu tư kinh doanh cho giai đoạn mới 2021-2025. Theo nhiều dự báo, đại dịch Covid-19 vẫn tiếp tục có những tác động nghiêm trọng trên phạm vi toàn cầu và chỉ có thể loại trừ hoàn toàn sau 4 -5 năm nữa, vì vậy trong thời gian tới cần có những chính sách mang tính dài hạn hơn.

Cuối cùng, cần lan toả và nhân rộng được các mô hình, cách làm tốt trong việc ứng phó với đại dịch Covid-19. Đối với các bộ, ngành, chính quyền địa phương, đó là kinh nghiệm trong việc triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Đối với các hiệp hội doanh nghiệp, cần chia sẻ được cách thức ứng phó hiệu quả dịch Covid-19 từ những doanh nghiệp đã tồn tại và phát triển được trong bối cảnh khó khăn của đại dịch Covid-19, nhất là những bài học về lựa chọn thị trường, đối tác, quan hệ kinh doanh, về đầu tư xây dựng “nội lực” cốt lõi của doanh nghiệp để tăng khả năng chống chịu với các cú sốc. Với những diễn đàn chia sẻ thông tin như vậy, các ngành hàng có thể cùng nhau nhìn lại những gì đã và có thể sẽ xảy ra trong ngành mình, và bàn hướng tăng cường hợp tác, liên kết để đi tới trong tương lai…

Buổi Hội thảo ngày hôm nay là một nỗ lực để đưa tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp đến được với các cơ quan Chính phủ, qua đó thúc đẩy các giải pháp hiệu quả hơn nhằm kiểm soát dịch bệnh, tháo gỡ khó khăn và trợ giúp doanh nghiệp bước qua thời kỳ thử thách, nhanh chóng phục hồi sau đại dịch. Chính vì thế, tôi rất hoan nghênh các quý vị đang tham dự trong khán phòng hoặc đang theo dõi sự kiện này qua các nền tảng trực tuyến sẽ cung cấp những góc nhìn, những quan điểm xây dựng để góp phần ươm mầm những sáng kiến, chia sẻ các bài học kinh nghiệm nhằm hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp và Chính phủ Việt Nam ứng phó hiệu quả và thực sự chiến thắng đại dịch COVID-19.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến Ngân hàng Thế giới, đến Chính phủ Úc đã đồng hành cùng VCCI trong quá trình thực hiện Báo cáo này. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cộng đồng doanh nghiệp, đến các doanh nhân Việt Nam. Trong một năm khó khăn tứ bề, từ đại dịch cho đến thiên tai, các anh chị thực sự là những người hùng trong sự nghiệp phát triển kinh tế nước nhà. Tôi cũng cảm ơn người lao động đã luôn cảm thông chia sẻ ngọt bùi cùng các doanh nhân. VCCI luôn sẵn sàng là cầu nối để phản ánh tiếng nói, bảo vệ quyền lợi cho cộng đồng doanh nghiệp và sẽ tiếp tục thúc đẩy những sáng kiến chính sách nhằm hỗ trợ sự trụ vững và phục hồi của các doanh nghiệp thời đại dịch.

(* Bài phát biểu của TS Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI tại Lễ công bố báo cáo "Tác động của dịch bệnh COVID-19 đối với doanh nghiệp Việt Nam: Một số phát hiện chinh từ điều tra doanh nghiệp năm 2020")

Theo Tạp chí Diễn Đàn Doanh nghiệp

https://enternews.vn/cong-dong-doanh-nghiep-kien-nghi-hang-loat-cac-chinh-sach-dai-han-193073.html