Tel: +84 24 35742022 | Fax: +84 24 35742020

Đề nghị áp dụng chính sách không kê khai, tính nộp thuế giá trị gia tăng đối với mặt hang cao su thiên nhiên

Thứ năm, 07-06-2017 | 11:23:00 AM GMT+7 Bản in

Tên kiến nghị: Đề nghị áp dụng chính sách không kê khai, tính nộp thuế giá trị gia tăng đối với mặt hang cao su thiên nhiên

Tình trạng: Đã phản hồi

Đơn vị kiến nghị: Hiệp hội Cao su Việt Nam

Công văn: 0874/PTM-VP, Ngày: 20/04/2017

Nội dung kiến nghị:

Đến nay, doanh nghiệp (DN) ngành cao su vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc rất lớn, làm hạn chế việc mở rộng xuất khẩu. Chính sách không kê khai, tính nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với nông thủy sản sơ chế xuất khẩu đã được áp dụng từ năm 2014, nhờ đó, lượng xuất khẩu của nông thủy sản Việt Nam đã gia tăng rất mạnh. Nhưng riêng mặt hàng cao su thiên nhiên, cũng là nông sản sơ chế, lại không được áp dụng chính sách ưu đãi này, mà DN xuất khẩu cao su phải nộp thuế GTGT, tuy sẽ được hoàn lại sau khi xuất khẩu, nhưng DN mất thời gian chờ đợi (từ 3 đến 9 tháng), gây tốn kém chi phí để trả lãi suất vay ngân hàng cho số vốn tạm nộp thuế GTGT. Khó khăn này càng lớn khi xuất khẩu càng nhiều, do vậy, một số DN đã hạn chế xuất khẩu cao su thiên nhiên hoặc chuyển sang xuất khẩu nông sản khác. Nếu khó khăn này không được tháo gỡ, xuất khẩu cao su thiên nhiên sẽ không đáp ứng với tiềm năng sản lượng của nông hộ tiểu điền, hiện chiếm trên 50% sản lượng cả nước, vì ngày càng khó tiêu thụ cao su thiên nhiên trong bối cảnh giá thấp kéo dài do dư cung trên thế giới vẫn còn nhiều cho đến năm 2020.    


Đơn vị phản hồi: Bộ Tài chính

Công văn: 6117/BTC-CST, Ngày: 11/05/2017

Nội dung trả lời:

- Tại khoản 1 Điều 1 Luật số 106/2016/QH/13 quy định đối tượng không chịu thuế GTGT như sau:

“1. Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu.

Doanh nghiệp, hợp tác xã mua sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã khác thì không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT nhưng được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.”.

Tại điểm a, khoản 1 Điều 12 Luật thuế GTGT quy định:

  1. a) Thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng được khấu trừ toàn bộ, kể cả thuế giá trị gia tăng đầu vào không được bồi thường của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT bị tổn thất;

Căn cứ các quy định nêu trên, mủ cao su chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự trồng trọt bán ra và ở khâu nhập thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT (doanh nghiệp sản xuất sản phẩm này không được kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào), khi bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc đối tượng không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT.

Mặt hàng mủ cao su sơ chế là sản phẩm đã qua chế biến công nghiệp, tuy nhiên để khuyến khích doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh mặt hàng này, tại khoản 2, Điều 8 Luật thuế GTGT có quy định áp dụng thuế suất 5% đối với mủ cao su sơ chế (là thuế suất ưu đãi so với mức thông thường là 10%). Quy định này nhằm giúp doanh nghiệp sản xuất mủ cao su sơ chế được kê khai, khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào của vật tư, hàng hóa phục vụ việc sản xuất mủ cao su sơ chế (máy móc, thiết bị, TSCĐ, điện, nước, nguyên vật liệu... thường có thuế suất thuế GTGT là 10%).

Trường hợp áp dụng chính sách không phải kê khai tính nộp thuế đối với mủ cao su sơ chế thì phải chuyển mủ cao su sơ chế sang đối tượng không chịu thuế GTGT thì doanh nghiệp sản xuất mủ cao su sơ chế không được khấu trừ thuế hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào mà phải tính số thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định, máy móc, vật tư, trang thiết bị và nguyên vật liệu vào chi phí sản xuất. Như vậy, sẽ làm tăng giá sản phẩm. Bên cạnh đó mủ cao su sơ chế nhập khẩu không phải chịu thuế nên sẽ gây bất lợi cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Xuất phát từ lý do nêu trên và để tránh vướng mắc như đã áp dụng đối với phân bón và thức ăn chăn nuôi, đề nghị giữ như mức quy định hiện hành.

Ý kiến bạn đọc (0)