Thứ 7, 18/10/2025 | English | Vietnamese
09:19:00 AM GMT+7Thứ 4, 15/10/2025
TS Nguyễn Đức Kiên, nguyên Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, nhấn mạnh nếu Việt Nam muốn đạt tăng trưởng kinh tế từ 10%/năm trong giai đoạn tới, cần một tư duy đột phá trong đầu tư công, coi hiệu quả là thước đo. Đồng thời, phải nuôi dưỡng đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam đủ sức đảm đương các dự án lớn, vươn tầm khu vực và thế giới.
- Ông có thể nói rõ hơn về quan điểm để đạt tăng trưởng cao, Việt Nam phải đổi mới mạnh mẽ tư duy về đầu tư công?
TS Nguyễn Đức Kiên: Kinh nghiệm phát triển kinh tế toàn cầu cho thấy kết cấu hạ tầng luôn là bệ đỡ căn bản. Một nền kinh tế muốn bứt phá thì trước hết phải có hạ tầng đồng bộ, hiện đại và hiệu quả. Hãy nhìn sang Trung Quốc, chỉ trong 30 năm, họ đã xây dựng hơn 40.000 km đường sắt cao tốc, tạo cú hích cho logistics, kết nối vùng miền, qua đó thúc đẩy thương mại và sản xuất.
Ở Việt Nam, giai đoạn vừa qua, chúng ta đã có những bước tiến đáng kể, đặc biệt là đường bộ và hàng không. Tuy nhiên, sự phát triển còn mất cân đối: chi phí logistics cao, ùn tắc cảng biển, đường sắt gần như dậm chân tại chỗ, vận tải thủy chưa khai thác hết tiềm năng. Đầu tư công nhiều khi vẫn nặng về thủ tục, chưa lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm thước đo.
Nếu muốn tăng trưởng từ 10%/năm, chúng ta không thể tiếp tục cách làm cũ. Đầu tư công cần chuyển sang tư duy “vốn mồi – hiệu quả – lan tỏa”. Nghĩa là vốn ngân sách chỉ khơi nguồn, còn điều quan trọng là tạo cơ chế hút vốn xã hội và doanh nghiệp cùng tham gia.
- Vậy hiện trạng hạ tầng Việt Nam sau thời kỳ dài đầu tư công đang bộc lộ những vấn đề gì?
TS Nguyễn Đức Kiên: Có thể khái quát thế này: đường bộ phát triển nhanh nhưng đang chịu quá tải; đường sắt và đường thủy lạc hậu; hàng không bùng nổ nhưng phụ thuộc lớn vào vốn tư nhân. Đường bộ với các tuyến cao tốc Bắc – Nam đã mở ra diện mạo mới, nhưng chi phí duy tu, bảo dưỡng lớn, mật độ xe tải dày đặc gây áp lực an toàn. Đường sắt thì gần như dậm chân 30 năm qua.
Hệ thống Bắc – Nam vẫn là khổ 1m từ thời Pháp, tốc độ chậm, không đáp ứng được yêu cầu vận tải hiện đại. Vận tải thủy có tiềm năng cực lớn, nhất là Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng chưa được đầu tư đúng mức, nhiều kênh rạch bồi lắng, tàu lớn không vào được.
Hàng không phát triển nhanh nhờ các hãng tư nhân như Vietjet, Bamboo Airways, song hạ tầng chưa đồng bộ, nhiều sân bay quá tải, quỹ đất mở rộng hạn chế. Hệ quả là chi phí logistics của Việt Nam hiện vẫn chiếm khoảng 16% – 17% GDP, cao hơn nhiều nước trong khu vực (Thái Lan 13%, Singapore 8%). Đây chính là rào cản khiến hàng hóa Việt Nam kém cạnh tranh hơn.
- Nhìn vào bối cảnh đó, ông đánh giá thế nào về dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam?
TS Nguyễn Đức Kiên: Đây là dự án mang tính bước ngoặt. Tổng mức đầu tư khoảng 70 tỷ USD nghe có vẻ lớn, nhưng nếu so với giá trị tạo ra thì hoàn toàn khả thi. Chỉ riêng nhu cầu vật liệu xây dựng cho dự án đã tạo ra hàng chục tỷ USD giá trị gia tăng cho nền kinh tế nội địa. Quan trọng hơn, dự án sẽ tạo việc làm cho khoảng 250.000 lao động, đồng thời thúc đẩy hình thành ngành công nghiệp đường sắt Việt Nam, từ sản xuất ray thép, toa xe, đầu máy cho tới hệ thống điều khiển tự động. Đây chính là cách mà Nhật Bản, Trung Quốc đã làm để vừa xây hạ tầng, vừa nâng cấp nền công nghiệp. Nếu triển khai nhanh và đúng hướng, đến 2035 chúng ta không chỉ có một tuyến giao thông huyết mạch hiện đại, mà còn có một ngành công nghiệp mới, góp phần nâng GDP tăng trưởng ở mức cao và bền vững.
- Tuy nhiên, nhiều ý kiến lo ngại về tính khả thi và rủi ro nợ công. Ông nhìn nhận thế nào?
TS Nguyễn Đức Kiên: Đúng là phải hết sức thận trọng. Nhưng vấn đề không phải là “có làm hay không”, mà là làm như thế nào. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các dự án hạ tầng lớn thành công khi có sự kết hợp “4 nhà”: nhà nước, nhà đầu tư, nhà băng và nhà thầu. Vốn ngân sách chỉ nên chiếm một phần để làm vốn mồi, còn lại phải huy động vốn tư nhân và vốn nhàn rỗi trong xã hội qua PPP, trái phiếu hạ tầng, quỹ đầu tư.
Điều quan trọng nhất là phải tính đúng, tính đủ, minh bạch chi phí để tránh đội vốn. Cùng với đó, phải ưu tiên doanh nghiệp Việt tham gia từ khâu xây dựng, cung ứng vật liệu, đến sản xuất thiết bị. Nếu chỉ giao hết cho nhà thầu ngoại, chúng ta sẽ chỉ có một tuyến đường, nhưng không có ngành công nghiệp.
- Ông nhiều lần nhấn mạnh “nuôi dưỡng doanh nghiệp Việt đủ sức vươn tầm thế giới”, cụ thể phải làm thế nào?
TS Nguyễn Đức Kiên: Doanh nghiệp tư nhân hiện chiếm 98% tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam, nhưng chủ yếu là nhỏ và vừa. Số doanh nghiệp lớn – đủ sức cạnh tranh quốc tế – còn rất ít.
Trong khi đó, ở các nước phát triển, chính những doanh nghiệp lớn là đầu tàu kéo cả nền kinh tế đi lên. Nếu không có Samsung, Hàn Quốc không thể bứt phá nhanh chóng. Nếu không có Toyota, Nhật Bản khó duy trì vị thế công nghiệp. Nếu không có Reliance, Ấn Độ khó trở thành cường quốc về năng lượng và viễn thông.
Ở Việt Nam, chúng ta cần một thế hệ doanh nghiệp đầu đàn như vậy. Muốn vậy, trước hết phải có thể chế minh bạch và ổn định để doanh nghiệp yên tâm đầu tư dài hạn. Thứ hai, phải tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn lớn thông qua thị trường tài chính phát triển và các quỹ đầu tư hạ tầng.
Thứ ba, cần đặt niềm tin và trao cơ hội, tức là cho phép doanh nghiệp Việt tham gia dự án lớn, không chỉ “đứng ngoài làm thầu phụ”.
Và cuối cùng, cần hỗ trợ công nghệ và nhân lực thông qua hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Chỉ khi có những doanh nghiệp Việt đủ mạnh, chúng ta mới có thể làm chủ các siêu dự án, mới dám nghĩ đến mục tiêu tăng trưởng từ 10%/năm.
- Ông có thể chia sẻ thêm kinh nghiệm quốc tế để Việt Nam tham khảo?
TS Nguyễn Đức Kiên: Có ba bài học điển hình.
Thứ nhất là Hàn Quốc. Sau chiến tranh, họ nghèo nàn, nhưng chính phủ kiên trì chiến lược “nuôi chaebol” như Samsung, Hyundai. Ban đầu, các tập đoàn này được ưu tiên tiếp cận vốn vay rẻ, đất đai, cơ hội xuất khẩu. Khi trưởng thành, họ trở thành tập đoàn toàn cầu, đóng góp 50% – 60% GDP.
Thứ hai là Trung Quốc. Chính quyền coi hạ tầng là “đầu tàu tăng trưởng”. Từ năm 1990, họ liên tục đầu tư vào cao tốc, cảng biển, đường sắt cao tốc, nhờ đó hình thành mạng lưới sản xuất – logistics khổng lồ, thu hút FDI và nâng cao năng lực doanh nghiệp nội.
Thứ ba là Singapore. Họ tập trung phát triển logistics, cảng biển, hàng không với tiêu chuẩn quốc tế. Nhờ đó, dù diện tích nhỏ bé, Singapore vẫn là trung tâm trung chuyển toàn cầu, GDP bình quân đầu người thuộc top đầu thế giới. Việt Nam có thể học từ các nước này, nhưng phải chọn mô hình phù hợp với thực tiễn, không thể sao chép máy móc
- Với mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, theo ông, đâu là những ưu tiên chính sách trong giai đoạn tới?
TS Nguyễn Đức Kiên: Tôi cho rằng có ba ưu tiên then chốt.
Thứ nhất, cần đổi mới tư duy đầu tư công, từ chỗ chỉ lo thủ tục sang đặt hiệu quả lên hàng đầu. Luật Đầu tư công và Luật Ngân sách nhà nước cần sửa đổi theo hướng tăng hậu kiểm, giảm tiền kiểm, trao quyền nhiều hơn nhưng buộc chịu trách nhiệm.
Thứ hai, phải phát triển doanh nghiệp Việt đầu đàn, tạo cơ chế để hình thành những tập đoàn tư nhân đủ sức cạnh tranh quốc tế. Chúng ta không thể mãi để doanh nghiệp nội chỉ làm thầu phụ cho FDI.
Thứ ba, cần huy động mọi nguồn lực xã hội: vốn tư nhân, kiều hối, quỹ hưu trí, trái phiếu… thông qua các hình thức PPP minh bạch và hấp dẫn. Nếu làm được, Việt Nam hoàn toàn có thể duy trì tăng trưởng 8% – 10%/năm trong giai đoạn 2026– 2035. Và đến năm 2045, chúng ta có cơ sở vững chắc để trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao như mục tiêu của Đảng đã đề ra.
Trân trọng cảm ơn ông!
Website nội bộ của VCCI
Liên kết nhanh
Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI
Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023
Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI
Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI | ||
Văn Phòng - Lễ tân: | Phụ trách website: | Liên hệ quảng cáo: |
📞 + 84-24-35742022 | 📞 + 84-24-35743084 | 📞 + 84-24-35743084 |
+ 84-24-35742020 | vcci@vcci.com.vn |
Truy cập phiên bản website cũ. Thiết kế và phát triển bởi ADT Global