VCCI logo

LIÊN ĐOÀN THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Vietnam Chamber of Commerce and Industry

Thứ 7, 06/09/2025 | English | Vietnamese

Trang chủTin tổng hợpTừ bao cấp đến kinh tế thị trường: Chặng đường 80 năm kiến tạo tương lai

Từ bao cấp đến kinh tế thị trường: Chặng đường 80 năm kiến tạo tương lai

09:09:00 AM GMT+7Thứ 4, 03/09/2025

Năm 2025 đánh dấu cột mốc có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam tròn 80 năm kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mở đầu cho hành trình xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ. Tám thập kỷ đã trôi qua, với bao biến động, từ chiến tranh khốc liệt, khủng hoảng kinh tế, tài chính, siêu lạm phát, đến những bước chuyển mình mạnh mẽ trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và hiện đại hoá nền kinh tế.

Việc nhìn lại toàn cảnh quá trình phát triển kinh tế Việt Nam trong tám thập kỷ dưới góc độ mô hình và thể chế kinh tế. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các chính sách trụ cột, các thành tựu và những tồn tại trong từng giai đoạn. Qua đó, làm rõ quá trình “kiến tạo tương lai” không chỉ là khát vọng, mà còn là chuỗi lựa chọn mang tính lịch sử, đòi hỏi sự kiên định, linh hoạt và đổi mới không ngừng.

Kinh tế Việt Nam thời kháng chiến, kiến quốc 1945 – 1975

Thời kỳ này, kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của chiến tranh, đất nước chia cắt và xung đột hệ tư tưởng. Miền Bắc cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH và chi viện cho miền Nam ruột thịt, nền kinh tế vận hành theo mô hình kế hoạch hoá tập trung.

Chính sách kinh tế gắn liền với nhiệm vụ quân sự và chính trị, đặt mục tiêu chính trị lên trên hiệu quả kinh tế, thực hiện cải cách ruộng đất; hợp tác hóa nông nghiệp; quốc hữu hoá công thương nghiệp tư nhân. Miền Nam thực hiện mô hình kinh tế thị trường; tư nhân hoá và tự do thương mại, kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ yếu; xây dựng hệ thống hạ tầng điện lực, viễn thông kết nối với khu vực và thế giới; mở rộng, phát triển đô thị lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Cần Thơ.

TS Nguyễn Bích Lâm, Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê.

Trong thời kỳ kháng chiến, kiến quốc, nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, chủ yếu dựa vào nông nghiệp tự cung tự cấp, phát triển kém năng động, hiệu quả thấp, phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài. Ngay khi Cách mạng tháng 8 thành công, Nha Tài chính đã được thành lập, hình thành hệ thống tài chính, ngân sách nhà nước; ban hành tiền Việt Nam, vận động nhân dân đóng góp cho kháng chiến là những bước đi đầu tiên xây dựng nền tài chính tự chủ, đóng vai trò trung tâm duy trì kháng chiến và chăm lo hậu phương.

Mặc dù cơ chế quản lý bao cấp đáp ứng nhu cầu thời chiến nhưng lại tạo tiền đề phát triển nền kinh tế quan liêu, mất khả năng huy động nguồn thu xã hội một cách bền vững. Hoạt động tài chính nhà nước giai đoạn 1945-1975 chủ yếu phục vụ mục tiêu kháng chiến, thống nhất đất nước, tổ chức tập trung, bao cấp, ngân sách đóng vai trò nguồn tài chính duy nhất và toàn diện.

Giai đoạn 1976 – 1985: Quản lý kinh tế theo mệnh lệnh hành chính

Đất nước vừa thống nhất đã phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc, cùng với cấm vận, cô lập của quốc tế, kinh tế kiệt quệ, cơ sở vật chất, hạ tầng giao thông bị tàn phá; tài chính quốc gia thiếu hụt nghiêm trọng. Quan điểm và cơ chế quản lý kinh tế không phù hợp, áp dụng triệt để mô hình kế hoạch hoá tập trung, trong đó ngân sách nhà nước là nguồn “tài nguyên” chủ yếu, bao cấp toàn diện cho mọi hoạt động kinh tế-xã hội; xoá bỏ đội ngũ doanh nhân miền Nam bằng cuộc “Cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh”; nhà nước kiểm soát, điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất, phân phối theo mệnh lệnh hành chính, quan liêu, việc quyết định sản xuất, định giá hàng hoá không theo quy luật thị trường.

Sản xuất đình trệ, ngăn sông cấm chợ, hàng hóa khan hiếm, tình trạng chợ đen hình thành nên hai giá, đầu cơ, tích trữ phổ biến. Cơ chế quản lý kinh tế duy ý chí, mệnh lệnh hành chính, bao cấp toàn diện đã triệt tiêu động lực và sự hiệu quả của thị trường.

Sản xuất yếu kém, nguồn thu ít, nhu cầu chi tiêu lớn cho khôi phục đất nước và chiến tranh biên giới, hệ thống quản lý hành chính phình to khiến thâm hụt ngân sách kéo dài, chi tiêu lớn, thu ngân sách thấp, bội chi được bù đắp bằng phát hành tiền. Giai đoạn 1981 - 1985, lượng tiền cung ứng vào nền kinh tế bình quân mỗi năm tăng khoảng 64,7%. Hệ thống và kỷ luật tài khoá thiếu minh bạch, hệ thống ngân sách bị cắt khúc, gây nên khủng hoảng tài chính, tiền tệ trầm trọng.

Để xử lý khủng hoảng kéo dài, Đảng và Nhà nước đã thực hiện cải cách Giá - Lương - Tiền bằng việc đổi tiền, tăng lương, điều chỉnh giá. Cuộc cải cách gây nên hậu quả nặng nề, lạm phát bùng phát nghiêm trọng hơn ngay sau khi thực hiện đổi tiền vào tháng 9 năm 1985, đẩy người dân vào bần cùng; sức mua của nền kinh tế suy giảm, niềm tin vào đồng tiền mới đổi sụp đổ; vàng, đô la Mỹ, hàng hoá tiêu dùng thiết yếu trở thành “tiền thật” trong giao dịch; kinh tế-xã hội rối loạn, lạm phát tăng vọt lên mức 453,5% vào năm 1986.

Nguyên nhân đẩy nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng, lạm phát phi mã là do “căn bệnh trầm kha” duy ý chí, mệnh lệnh hành chính, cải cách nửa vời, thiếu chuẩn bị nền tảng sản xuất và tâm lý xã hội; không thể kiểm soát lạm phát một khi thị trường hàng hoá lâm vào tình trạng cung không đủ cầu và bằng biện pháp hành chính. Hệ thống tài khoá vận hành theo mô hình kế hoạch hoá tập trung cao độ, rơi vào khủng hoảng, tài chính mất cân đối nghiêm trọng.

Công cuộc đổi mới kinh tế: Bước ngoặt lịch sử trong tiến trình phát triển kinh tế

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế trầm trọng, siêu lạm phát, đời sống nhân dân gặp vô vàn khó khăn, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã đưa ra quyết định lịch sử, tạo bước ngoặt quan trọng trong chặng đường phát triển kinh tế của đất nước, đó là: Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế. Chuyển đổi mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Giai đoạn 1986-2000, Đảng và Nhà nước đã khởi xướng, tập trung thực hiện đổi mới trên bốn lĩnh vực quan trọng, thiết thực của đất nước:

Một là, cải cách thể chế kinh tế: Đảng và Nhà nước công nhận nền kinh tế nhiều thành phần với sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đổi mới phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước từ bao cấp sang hạch toán kinh doanh, từng bước tự chủ tài chính.

Hai là, đổi mới chính sách nông nghiệp, nông thôn: thực hiện khoán 10, giao quyền sử dụng đất và sản phẩm thu được trên đất cho nông dân, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung cứng nhắc, tạo động lực sản xuất cho nông dân. Từng bước đổi mới chính sách đất đai theo hướng trao quyền sử dụng lâu dài cho hộ nông dân.

Ba là, cải cách tài khóa, tiền tệ: nhằm mục đích khắc phục tình trạng bội chi ngân sách và siêu lạm phát; thiết lập cơ chế phân bổ nguồn lực tài chính phù hợp với cơ chế thị trường; tăng tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, hiệu quả trong quản lý ngân sách nhà nước. Thành tựu nổi bật trong giai đoạn 1986 - 2000 của lĩnh vực tài chính đó là đã xoá bỏ cơ chế quản lý mệnh lệnh hành chính, bao cấp; hình thành khuôn khổ chính sách tài khoá minh bạch, tăng nguồn thu, giảm bội chi, lạm phát được kiểm soát. Tuy vậy, hạ tầng chưa được đầu tư đồng bộ, giám sát chi ngân sách nhà nước còn lỏng lẻo.

Bốn là, thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế: trong bối cảnh nền kinh tế bị cô lập, xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước xác định hội nhập quốc tế và thu hút vốn FDI là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi mô hình phát triển. Thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập, năm 1993 Việt Nam trở thành thành viên của Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển châu Á; năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN; năm 1998 gia nhập APEC; năm 2000 ký Hiệp định Thương mại song phương Việt - Mỹ, mở cửa thị trường Hoa kỳ, tạo bước đệm quan trọng để Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sau này.

Thành tựu nổi bật trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới đó là đất nước đã vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng cao, ổn định với tốc độ tăng GDP bình quân năm giai đoạn 1986 - 1990 đạt 4,4%; giai đoạn 1991- 2000 đạt 7%; chấm dứt tình trạng siêu lạm phát kéo dài nhiều năm, lạm phát từ mức 3 con số 453,5% năm 1986 giảm xuống 95,8% năm 1989 và 37,7% năm 1992; tỷ lệ thu ngân sách trên GDP tăng ổn định từ dưới 10% vào đầu thập niên 1990 lên trên 20% vào cuối giai đoạn; cải thiện đời sống nhân dân, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống 30% năm 2000; thu hút khá mạnh dòng vốn FDI, thời kỳ 1986 -2000 nền kinh tế thu hút được trên 40 tỷ USD vốn FDI đăng ký; khu vực kinh tế tư nhân dần trỗi dậy với làn sóng thành lập doanh nghiệp tư nhân mạnh mẽ. Xuất khẩu tăng trưởng nhanh, ổn định. Quy mô kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 14,45 tỷ USD, gấp 18,3 lần năm 1986; tạo nguồn thu ngoại tệ, tạo việc làm cho hàng triệu lao động, nâng cao vị thế thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam.

Giai đoạn 1986 - 2000 đánh dấu công cuộc đổi mới kinh tế lần thứ nhất, tạo bước ngoặt lịch sử, mang tính then chốt với việc chuyển đổi tư duy và mô hình kinh tế, cải cách tài khoá đã gắn với cải cách thể chế, bộ máy và minh bạch tài chính công, đưa kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng, tạo dựng nền tảng vững chắc cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng trong những năm tiếp theo.

Thập kỷ bứt phá trong hội nhập và tăng trưởng, chuyển đổi mô hình phát triển

Phát huy thế và lực, nắm bắt cơ hội từ mở cửa và hội nhập quốc tế trong giai đoạn trước, giai đoạn 2001-2020, Đảng và Nhà nước thực hiện chiến lược bứt phá đồng thời trên bốn “mặt trận”, đặt nền móng cho phát triển nhanh, bền vững trong thế kỷ 21.

Một là, hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng, nâng tầm vị thế quốc gia: Dấu ấn bứt phá trong hội nhập kinh tế quốc tế là sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, mở ra chặng đường hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu. Cùng với đó, Việt Nam ký kết nhiều FTA thế hệ mới, mở rộng đối tác chiến lược và không gian kinh tế, tăng cơ hội thu hút vốn, công nghệ, tri thức mới, nâng tầm vị thế quốc gia. Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 282,6 tỷ USD, gấp 19,5 lần so với năm 2000.

Hai là, đẩy mạnh phân cấp ngân sách, nâng cao hiệu quả tài khoá, mở rộng không gian cho đầu tư phát triển: trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập sâu rộng, bứt phá về tăng trưởng kinh tế, Chính phủ đã thực hiện một số cải cách tài khoá quan trọng như: Cải thiện hệ thống thuế và mở rộng cơ sở thu; tái cấu trúc chi ngân sách, nâng cao hiệu quả đầu tư công; đẩy mạnh phân cấp, tự chủ tài khoá và quản lý ngân sách công; kiểm soát chặt chẽ bội chi và nợ công nhằm mở rộng không gian tài khoá cho đầu tư phát triển.

Ba là, bứt phá trong tăng trưởng kinh tế, năng lực sản xuất, tạo dựng nền tảng vĩ mô ổn định: Dấu ấn bứt phá của “mặt trận” này thể hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định, từng bước chuyển dịch sang chiều sâu, quy mô kinh tế ngày càng mở rộng, đóng góp của các khu vực kinh tế ngày càng cân bằng, lạm phát được kiểm soát. Tốc độ tăng GDP bình quân 20 năm giai đoạn 2001- 2020 đạt 6,58%; GDP bình quân đầu người năm 2020 đạt mức 2.779 USD gấp 5,57 lần năm 2000, đưa Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước nghèo, vượt ngưỡng thu nhập trung bình thấp. Năm 2020, tỷ lệ GDP của khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm 50,56% trong tổng GDP toàn nền kinh tế cao hơn nhiều so với tỷ lệ 20,66% của khu vực nhà nước.

Bốn là, chuyển đổi mô hình phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu: Chủ động chuyển dần mô hình tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ sang từng bước ứng dụng khoa học công nghệ, tăng năng suất. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch rõ rệt. Khu vực ngoài nhà nước phát triển nhanh, trở thành động lực tăng trưởng mới, ngày càng quan trọng; khu vực FDI năng động, chiếm trên 70% kim ngạch xuất khẩu. Giai đoạn 2001-2020 đánh dấu bước tiến dài về phát triển kinh tế. Duy trì tốc độ tăng trưởng cao, kiểm soát lạm phát, giữ ổn định vĩ mô, hội nhập sâu rộng, cải thiện đáng kể đời sống nhân dân.

Khởi xướng công cuộc đổi mới lần thứ hai, tạo nền tảng đưa đất nước vào kỷ nguyên phát triển thịnh vượng

Kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2025 diễn ra trong bối cảnh thế giới có những biến động sâu sắc về địa chính trị, bất định, khó lường, chuyển đổi số; lợi ích và an ninh quốc gia đang định hình toàn diện mọi chính sách kinh tế thế giới.

Bên cạnh đó dịch Covid-19 tạo ra cú sốc lớn chưa từng có đối với kinh tế toàn cầu, đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với thế giới phải cải cách thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Kinh tế nước ta có độ mở lớn, đương đầu với các thách thức từ hậu quả nặng nề của dịch Covid -19 gây gián đoạn chuỗi cung ứng, đình trệ sản xuất, thu nhập của người lao động suy giảm; hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ, thiếu liên kết vùng; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của CMCN 4.0.

Đặc biệt, thể chế vẫn là điểm nghẽn nghiêm trọng; môi trường kinh doanh chưa minh bạch; khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn gặp khó khăn trong tiếp cận nguồn lực đất đai, vốn, tín dụng. Cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng diễn ra chậm; đổi mới sáng tạo chưa trở thành động lực chính, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao động thấp. Thách thức cũng là động lực mở ra cơ hội phát triển của nền kinh tế. CMCN 4.0 là cơ hội để nước ta rút ngắn khoảng cách phát triển, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực quản trị công và quản trị doanh nghiệp, nâng cao năng xuất lao động.

Trong bối cảnh khủng hoảng chồng chéo, chính sách vĩ mô đóng vai trò “Mỏ neo ổn định”, chuyển sang “Bệ đỡ phục hồi” và “Đòn bẩy cải cách” cho nền kinh tế. Giai đoạn 2021-2025, Chính sách tài khoá được thực hiện linh hoạt, chủ động, đóng vai trò trụ cột trong phục hồi và chuyển đổi mô hình phát triển, bước đầu tiếp cận xu hướng tài chính xanh - số - bao trùm; chính sách tiền tệ nới lỏng linh hoạt nhằm hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp, duy trì thanh khoản, ổn định hệ thống tài chính, kiểm soát lạm phát, duy trì niềm tin thị trường.

Giai đoạn 2021-2025, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được ổn định vĩ mô, phục hồi tăng trưởng. Năm 2022, GDP tăng 8,02% cao nhất trong vòng 11 năm qua; lạm phát luôn được kiểm soát dưới mức mục tiêu; huy động và sử dụng hiệu quả hơn vốn đầu tư. Việt Nam duy trì vị thế là một trong những nền kinh tế xuất khẩu hàng đầu ASEAN, với kim ngạch xuất khẩu năm 2024 đạt 405,5 tỷ USD, là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài tập trung vào lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng tái tạo.

Ngày nay, thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới, hệ thống kinh tế thế giới đang định hình lại, đứng trước nhiều ngã rẽ. Để tăng cường khả năng ứng phó với những biến động khó lường, thực hiện khát vọng xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước đã khởi xướng công cuộc đổi mới lần thứ hai - Đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, đổi mới mạnh mẽ tư duy, quan điểm phát triển kinh tế, đổi mới tư duy quản trị, điều hành đất nước.

Bộ Chính trị đã cương quyết chỉ đạo, khẩn trương thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội. Sắp xếp lại địa giới và đơn vị hành chính là bước đi chiến lược trong đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, tạo sự gắn kết chặt chẽ không gian phát triển kinh tế và địa giới hành chính, khơi dậy nguồn lực, tạo đột phá trong phát triển kinh tế địa phương.

Hoà chung với công cuộc đổi mới lần thứ hai, trong kỷ nguyên mới, chính sách tài khoá cần phải cải cách toàn diện trên bốn trụ cột, đó là: Xây dựng khung tài khóa trung hạn hiện đại, linh hoạt, thực hiện kỷ luật tài khoá, đồng thời thiết lập cơ chế đánh giá độc lập tác động tài khoá và hiệu quả chi tiêu; Cải cách hệ thống thuế theo hướng công bằng, hiệu quả, mở rộng cơ sở thuế, nâng cao năng lực quản lý thuế, tăng tính tuân thủ tự nguyện; Cơ cấu lại chi tiêu công, tập trung cho đầu tư chất lượng cao, giảm chi thường xuyên, cắt bỏ các khoản chi không hiệu quả, tăng chi cho đổi mới sáng tạo, hạ tầng chuyển đổi năng lượng, giáo dục, y tế. Triển khai ngân sách theo kết quả đầu ra, tăng cường giám sát xã hội và trách nhiệm giải trình; Phát triển tài khoá xanh, tài khoá bao trùm, tài khoá số.

Đảng và Nhà nước đổi mới tư duy không chỉ bằng chính sách mà bằng tình yêu, vì trách nhiệm với nhân dân, với đất nước.

Thực hiện cải cách, đổi mới kinh tế toàn diện, đồng bộ với đổi mới chính trị. Cải cách, đổi mới về thể chế kinh tế đáp ứng tiêu chuẩn: đảm bảo chất lượng, sự phù hợp với thực tiễn của các quy định hiện hành; nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong thực thi pháp luật; kiểm soát chất lượng của những quy định mới, không tạo ra xung đột chính sách và cản trở sự phát triển.

Cùng với đó xây dựng Nhà nước kiến tạo, quản trị, tạo dựng chính sách với tầm nhìn chiến lược; cải cách triệt để hệ thống giáo dục; cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; kiến tạo, phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp dân tộc là điều kiện cần và đủ, tạo điểm tựa và đòn bẩy cho một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, đem lại ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân. Trải qua tám thập kỷ với những bước ngoặt lịch sử, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển mình mạnh mẽ từ mô hình kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, phụ thuộc vào viện trợ, Việt Nam đã từng bước ổn định kinh tế, tài chính, tăng trưởng cao và ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới. Thành tựu 80 năm không chỉ đo đếm bằng tốc độ tăng trưởng và quy mô của nền kinh tế, mà còn thể hiện ở khả năng tự chủ tài chính quốc gia, năng lực điều hành linh hoạt chính sách vĩ mô, sức chống chịu của nền kinh tế trước những cú sốc toàn cầu. Các chính sách tài khoá, tiền tệ, cải cách thể chế, mở cửa thị trường đóng vai trò quyết định trong hành trình chuyển đổi mô hình phát triển, nâng cao đời sống nhân dân.

Những bài học về khủng hoảng, lạm phát, thể chế là điểm nghẽn, bất cập trong điều hành chính sách, thách thức về nợ công, năng suất lao động thấp, bất bình đẳng vẫn là cảnh báo quan trọng cho chặng đường phát triển sắp tới. Để nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, bền vững trong kỷ nguyên mới đòi hỏi Việt Nam tiếp tục hoàn thiện khung khổ thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng quản trị tài khoá - ngân sách, đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối và tiếp cận các nguồn lực.

Chặng đường 80 năm đã qua là điểm tựa để Việt Nam vững vàng bước vào thời kỳ phát triển mới, thực hiện khát vọng trở thành quốc gia thu nhập cao, có nền kinh tế độc lập, tự chủ, năng động, hội nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Từ ký ức của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp đến hiện thực của nền kinh tế thị trường, câu chuyện phát triển của kinh tế Việt Nam là minh chứng sống động cho bản lĩnh tự cường, sáng tạo, khát vọng vươn lên của đất nước.

TheoNguyễn Bích Lâm Nguyên Tổng cục trưởng, Tổng cục Thống kê. / Tạp chí điện tử Đầu tư Tài chính
Copy link

Văn bản pháp luật

Liên kết

Website nội bộ của VCCI

Footer logo

Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI 

  Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam

Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023

Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI

Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI
Văn Phòng - Lễ tân:  Phụ trách website: Liên hệ quảng cáo:
📞 + 84-24-35742022 📞 + 84-24-35743084 📞 + 84-24-35743084
 + 84-24-35742020   vcci@vcci.com.vn   

Truy cập phiên bản website cũ.                                                     Thiết kế và phát triển bởi ADT Global