VCCI logo

LIÊN ĐOÀN THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Vietnam Chamber of Commerce and Industry

Thứ 7, 23/08/2025 | English | Vietnamese

Trang chủTin tổng hợpCuộc chơi tín chỉ carbon: Người tiêu dùng âm thầm “móc hầu bao”

Cuộc chơi tín chỉ carbon: Người tiêu dùng âm thầm “móc hầu bao”

09:28:00 AM GMT+7Thứ 6, 22/08/2025

Trong nỗ lực thực hiện các cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam đang từng bước hoàn thiện khung pháp lý và thử nghiệm vận hành thị trường tín chỉ carbon. Tuy nhiên, với nhiều doanh nghiệp, câu hỏi đặt ra là: Liệu tín chỉ carbon sẽ trở thành cơ hội phát triển bền vững hay lại là tạo ra gánh nặng chi phí mới?

Cơ hội mới đi kèm áp lực mới

Chia sẻ với Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance, TS. Võ Trung Tín (Trường Đại học Luật TP. HCM), cho rằng tín chỉ carbon, nếu nhìn từ góc độ dài hạn, là cơ hội thực sự cho nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh: “Nên gọi là thách thức, chứ không phải gánh nặng, bởi đây là vấn đề mới mẻ, nhất là với quốc gia đang phát triển như Việt Nam – nơi vẫn phải ưu tiên tăng trưởng kinh tế”.

Theo ông Tín, cơ chế tín chỉ carbon cho phép định giá phát thải, qua đó thúc đẩy đầu tư vào công nghệ sạch và năng lượng tái tạo. Khi doanh nghiệp buộc phải đầu tư để giảm phát thải hoặc mua tín chỉ bù đắp, một nhu cầu mới sẽ hình thành, kéo theo các dòng vốn xanh. Mặt khác, các dự án tạo tín chỉ carbon giúp doanh nghiệp biến nghĩa vụ môi trường thành nguồn thu, thông qua việc phát hành và bán tín chỉ trên thị trường trong nước hoặc quốc tế. Ngoài lợi ích tài chính, doanh nghiệp còn được tiếp cận công nghệ xanh, qua đó giảm chi phí tuân thủ trong dài hạn và nâng cao năng lực cạnh tranh.

“Nếu được tiếp cận một cách chủ động và có chiến lược, cơ chế tín chỉ carbon hoàn toàn có thể trở thành một cơ hội phát triển mới”, TS. Võ Trung Tín nhấn mạnh.

TS. Võ Trung Tín (Trường Đại học Luật TP. HCM).

Củng cố thêm quan điểm này, Luật sư Lê Duy Khang đến từ Công ty luật TNHH MTV Tín và Tâm, cũng cho biết việc các doanh nghiệp buộc phải lựa chọn giữa giảm phát thải hoặc mua tín chỉ carbon không chỉ tạo ra áp lực tuân thủ, mà còn hình thành một nhu cầu đầu tư thực chất vào mô hình sản xuất xanh. Thay vì chỉ xem nghĩa vụ môi trường là chi phí, doanh nghiệp có thể biến chính nghĩa vụ ấy thành nguồn lợi tài chính. Đó là một bước tiến quan trọng trong tư duy phát triển bền vững.

Ông Khang cho biết, khi thị trường carbon đi vào vận hành chính thức, nhóm doanh nghiệp chịu tác động rõ rệt nhất sẽ là các cơ sở phát thải lớn.

“Đây là những đối tượng phải sớm tham gia thị trường carbon với nghĩa vụ rõ ràng: nếu lượng phát thải vượt quá ngưỡng cho phép, doanh nghiệp buộc phải mua tín chỉ carbon để bù đắp phần chênh lệch. Do đó, áp lực tài chính và kỹ thuật sẽ tập trung nhiều nhất vào các nhóm này trong giai đoạn đầu triển khai. Tuy nhiên, đồng thời, thị trường cũng tạo ra động lực mạnh mẽ để các doanh nghiệp này cải tiến công nghệ, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng và chủ động tham gia vào các dự án giảm phát thải, điều mà trước đây chưa có cơ chế khuyến khích đủ mạnh để thực hiện”, ông Khang nêu.

Bên cạnh đó, Quyết định 13/2024/QĐ-TTg cũng xác định rõ danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê. Trong giai đoạn thí điểm, nhóm doanh nghiệp thuộc các ngành như nhiệt điện, sắt thép, xi măng sẽ là những đơn vị đầu tiên bị áp hạn ngạch phát thải khí nhà kính và phải mua tín chỉ nếu vượt ngưỡng được phân bổ.

Ở chiều ngược lại, nhóm doanh nghiệp có khả năng tạo ra lượng giảm phát thải lớn sẽ là bên hưởng lợi từ thị trường tín chỉ carbon. Danh mục 1 của Phụ lục V, Nghị định 119/2025/NĐ-CP đã xác định các lĩnh vực hưởng lợi tiềm năng như năng lượng tái tạo (điện gió, sinh khối, điện rác), nông nghiệp – lâm nghiệp – chăn nuôi (tuần hoàn chất thải, biogas, kỹ thuật canh tác cải tiến), công nghệ xử lý chất thải (nước thải, chôn lấp phát điện) và nhóm thương mại – đô thị (thiết bị hiệu suất cao, xe điện, giao thông công cộng điện khí hóa). Những doanh nghiệp này có thể xây dựng dự án giảm phát thải, đăng ký phát hành tín chỉ và bán trên thị trường, từ đó thu được nguồn tài chính đáng kể và mở rộng mô hình kinh doanh bền vững.

Tuy nhiên, theo đánh giá của TS. Võ Trung Tín, cái giá của việc tham gia thị trường carbon không nhỏ, khi thị trường tín chỉ carbon vận hành ở quy mô lớn và bắt buộc, nhóm chịu tác động tài chính đầu tiên không phải là doanh nghiệp mà chính là người tiêu dùng cuối cùng.

“Nguyên nhân nằm ở việc các doanh nghiệp phát thải lớn, điển hình như trong lĩnh vực công nghiệp nặng, vận tải và sản xuất điện từ nhiên liệu hóa thạch sẽ bắt buộc phải mua tín chỉ carbon hoặc đầu tư vào công nghệ giảm phát thải để đáp ứng quy định về hạn ngạch. Những chi phí phát sinh từ quá trình này sẽ được doanh nghiệp đưa vào giá thành sản phẩm, từ đó làm tăng giá hàng hóa, năng lượng và dịch vụ trên thị trường. Do vậy, người tiêu dùng thực chất là bên gián tiếp gánh chịu gánh nặng tài chính thông qua việc chi trả cao hơn cho nhu cầu tiêu dùng thiết yếu hằng ngày”, ông Tín nhấn mạnh.

Không chỉ đối mặt với chi phí mua tín chỉ, doanh nghiệp còn phải gánh thêm chi phí kiểm kê khí nhà kính (thuê tư vấn, đo đạc, xác minh), lập hồ sơ, vận hành dự án và đào tạo nhân sự chuyên trách. Đây là những khoản đầu tư “vô hình” nhưng bắt buộc nếu muốn tham gia thị trường một cách minh bạch, hiệu quả và đúng luật.

Tuy nhiên, ông Tín cho rằng đây là khoản đầu tư có lợi về lâu dài. Việc chủ động chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh sẽ giúp doanh nghiệp tối ưu hóa chi phí, giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe từ thị trường xuất khẩu như EU – nơi đang áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Nếu không thích ứng sớm, doanh nghiệp Việt có thể bị đánh thuế carbon cao, mất lợi thế cạnh tranh hoặc thậm chí bị loại khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu.

“Chiến lược chuyển đổi phù hợp không chỉ giúp doanh nghiệp tuân thủ quy định mà còn là chìa khóa để duy trì lợi thế cạnh tranh trong kỷ nguyên kinh tế xanh”, TS. Võ Trung Tín nhấn mạnh.

Ảnh minh hoạ.

Chính sách đã mở

Đánh giá về khung pháp lý hiện hành, LS Khang cho hay các khung quy định hiện nay đã khá rõ ràng. Theo khoản 5 Điều 19 Nghị định 06/2022/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 119/2025/NĐ-CP), doanh nghiệp có thể sử dụng cơ chế bù trừ bằng tín chỉ carbon nếu phát thải vượt ngưỡng. Trường hợp không tuân thủ, sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 45 Nghị định 45/2022/NĐ-CP về bảo vệ môi trường. Hành lang pháp lý này được thiết lập nhằm bảo đảm tính cưỡng chế và sự công bằng trong việc thực thi cam kết giảm phát thải.

Ông Khang đánh giá cao sự hoàn thiện về thể chế trong thời gian gần đây. Theo ông, các luật nền tảng như Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Lâm nghiệp và Luật Bảo vệ Môi trường đang tạo điều kiện đủ để triển khai các dự án tín chỉ carbon một cách hợp pháp và khả thi.

Đáng chú ý, Nghị định 119/2025/NĐ-CP đã bổ sung quy định rõ ràng về thủ tục để Bộ Nông nghiệp và Môi trường công nhận dự án đủ điều kiện phát hành tín chỉ carbon. Đây được xem là bước tiến quan trọng khi lần đầu tiên tạo ra một “con đường chính ngạch” để các dự án được xác nhận tính hợp pháp. Nhờ đó, doanh nghiệp và nhà đầu tư có thể giảm đáng kể rủi ro pháp lý và nâng cao niềm tin vào độ bền vững của dự án trong dài hạn.

Theo TS. Võ Trung Tín, một điểm nổi bật khác trong hành lang pháp lý hiện hành là việc Việt Nam đã chính thức thừa nhận và cho phép sử dụng các phương pháp luận quốc tế uy tín như Verra và Gold Standard trong việc xây dựng và xác minh tín chỉ carbon. Theo TS. Tín, điều này mang lại nhiều lợi ích thiết thực.

Thứ nhất, doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi phí vì không cần phát triển từ đầu các bộ tiêu chuẩn kỹ thuật phức tạp mà có thể áp dụng ngay những mô hình đã được kiểm chứng trên quy mô toàn cầu.

Thứ hai, việc sử dụng các phương pháp luận quốc tế giúp tạo niềm tin cho các tổ chức tài chính và nhà đầu tư nước ngoài vốn đã quen thuộc với các chuẩn mực này, từ đó thúc đẩy luồng vốn, công nghệ và chuyên môn quốc tế chảy vào Việt Nam.

Thứ ba, tín chỉ được phát hành theo các tiêu chuẩn này có khả năng giao dịch linh hoạt trên cả thị trường carbon tự nguyện quốc tế và thị trường bắt buộc trong nước, làm tăng tính thanh khoản và giá trị thương mại của dự án.

TheoHà Hoàng (Tạp chí điện tử Đầu tư Tài chính)
Copy link

Văn bản pháp luật

Liên kết

Website nội bộ của VCCI

Footer logo

Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI 

  Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam

Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023

Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI

Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI
Văn Phòng - Lễ tân:  Phụ trách website: Liên hệ quảng cáo:
📞 + 84-24-35742022 📞 + 84-24-35743084 📞 + 84-24-35743084
 + 84-24-35742020   vcci@vcci.com.vn   

Truy cập phiên bản website cũ.                                                     Thiết kế và phát triển bởi ADT Global