Thứ 6, 31/10/2025 | English | Vietnamese
11:35:00 AM GMT+7Thứ 3, 02/09/2025
Theo TS. Phan Hữu Thắng, trước thềm kỷ nguyên phát triển mới, câu chuyện đặt ra không chỉ dừng lại ở việc “thu hút FDI” mà còn cần chuyển sang tư duy “hợp tác FDI”, nhằm nâng cao vị thế quốc gia.
Sau gần 40 năm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Việt Nam đã đạt được những thành quả ấn tượng khi FDI trở thành một trong những động lực tăng trưởng chủ lực. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, khu vực này cũng đặt ra không ít thách thức đối với mục tiêu xây dựng một nền kinh tế tự chủ.
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh (2/9/1945 – 2/9/2025), VietnamFinance đã có cuộc trao đổi với TS. Phan Hữu Thắng – Chủ tịch Liên chi hội Tài chính KCN Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch & Đầu tư) để nhìn lại vai trò “kép” của FDI và bàn về những định hướng trong giai đoạn phát triển mới.
- Sau 80 năm độc lập và gần 40 năm đổi mới, ông nhìn nhận như thế nào về tác động "kép" của FDI: vừa là động lực phát triển, vừa đặt ra những thách thức cho mục tiêu tự chủ kinh tế?
TS. Phan Hữu Thắng: Tôi hiểu tác động "kép" nêu ở đây chính là hai mặt "tích cực" và "tồn tại" của FDI đến thời điểm hiện nay. Tích cực là các đóng góp của FDI vào phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), còn "tồn tại" là những hạn chế (bao gồm cả các mặt trái của FDI và năng lực quản lý FDI còn hạn chế của chính Việt Nam).
Trước hết cần nhận rõ, sau gần 40 năm (12/1987 - 8/2025), khu vực kinh tế có vốn FDI đã trở thành khu vực phát triển năng động, ngày càng phát huy vai trò quan trọng và có những đóng góp to lớn trong phát triển KT-XH Việt Nam. Nhưng nhìn từ góc độ thực tiễn cho thấy: Hai măt tích cực và tồn tại của FDI luôn đồng hành với nhau, ít hay nhiều “tồn tai” phụ thuộc vào hiệu quả quản lý nhà nước của Việt Nam về FDI ở mỗi giai đoạn phát triển.
Cũng cần nhận ra tồn tại của FDI tại Việt Nam cũng chỉ là các tồn tại trong quá trình phát triển nhanh của một nền kinh tế đi sau, chỉ có điều là các tồn tại đó tuy đã được nhận ra nhưng chậm được khắc phục.
Thí dụ như công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam chậm phát triển đã được nhận ra từ nhiều năm qua, đã có biết bao nhiêu hội nghị - hội thảo trao đổi về chủ đề này, nhưng đến nay công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của các doanh nghiệp có vốn FDI. Hệ quả của việc này sẽ nêu thêm tại phần các tồn tại của FDI ở phần tiếp theo.
Về các mặt tích cực của FDI, khu vực này đã đóng góp một nguồn vốn quan trọng cho tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước, năm sau cao hơn năm trước.
Cụ thể, trong kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm đầu tiên 1991- 1995 vốn FDI thực hiện chỉ đạt trên 7,1 tỷ USD, nhưng trong kế hoạch 5 năm hiện nay (2021-6/2025), vốn FDI thực hiện đã đạt trên 102,38 tỷ USD - một con số mà vào những năm đầu thu hút FDI không ai dám nghĩ tới.
Tôi nhớ khi bước vào xây dựng kế hoạch thu hút vốn FDI trong 5 năm đầu tiên 1991-1995: SCCI (cơ quan quản lý nhà nước về FDI giai đoạn đầu) chỉ dám đưa ra kế hoạch thu hút 2 tỷ USD FDI cho 5 năm trên.
Đến nay, với con số vốn FDI thực hiện trên 102 tỷ USD nêu trên cho hơn 4 năm vừa qua, cho thấy sự đóng góp to lớn của nguồn vốn này cho tăng trưởng kinh tế. Tính bình quân FDI chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong nhiều năm vừa qua.
Các mặt tích cực khác của FDI bao gồm các nội dung tóm tắt như sau: Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa do tập trung đầu tư vào công nghiệp chế biến chế tạo, giúp xây dung một hệ thống KCN trong cả nước; Góp phần vào phát triển nhiều ngành dịch vụ trong nền kinh tế đang phát triển như ngân hàng-tài chính, bảo hiểm, kiểm toán, vận tải biển, logistiss, giáo dục - đào tạo, y tế, khách sạn, du lịch, nhà ở;
FDI còn góp phần thúc đẩy, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu; Thực hiện chuyển giao công nghệ, R&D trong một số ngành; Có hiệu ứng lan tỏa năng suất và công nghệ sang một số khu vực trong nước tạo ra các mô hình mới trong quản lý sản xuất - kinh doanh; Tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, hỗ trợ cán cân thanh toán và góp phần vào ổn định kinh tế vĩ mô;
FDI tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động của nền kinh tế. Đặc biệt là vai trò của FDI trong việc hoàn thiện cơ chế thị trường, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Về các tồn tại của FDI, quản lý nhà nước còn thiếu chặt chẽ, các tồn tại trong quá trình thu hút FDI rất chậm được khắc phục. Cụ thể, tại Hội nghị tổng kết 30 năm FDI tại Việt Nam tháng 10/2018 đã nêu rõ các thách thức sau như:
Thiếu liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước do sự kém phát triển của của ngành công nghiêp hỗ trợ nên nguyên phụ liệu cho sản xuất của các doanh nghiệp FDI chủ yếu vẫn từ bên ngoài vào. Nếu Việt Nam không phát triển được nhanh công nghiệp hỗ trợ sẽ khiến các nhà đầu tư nước ngoài ngần ngại trong xem xét quyết định đầu tư vào Việt Nam.
Bên cạnh đó các đối tác có tiềm lực kinh tế lớn hơn, gần thị trường Việt Nam sẽ tận dụng các yếu kếm đó của Việt Nam để đẩy mạnh việc xuất khẩu nguyên liệu đầu vào cho sản xuất tại Việt Nam Viêc này đã và sẽ hạn chế công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam phát triển, dẫn đến việc sản xuất công nghiệp của Việt Nam sẽ luôn chịu phụ thuộc vào Bên ngoài;
Thu hút và chuyển giao công nghệ từ khu vực FDI chưa đạt hiệu quả; Mất cân đối về hình thức đầu tư: trong các hình thức FDI được phép đầu tư tại Việt Nam như; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ; Công ty liên doanh; Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), Xây dựng - Vận hành - Chuyển giao (BOT), Xây dựng - Chuyển giao (BT),… thì hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ rất cao (như năm 2018 chiếm tới 84,4% về số dự án, 71,9% về vốn);
Khi hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn FDI nhiều như vậy nên các doanh nghiệp Việt Nam không có điều kiện để tiếp cận với công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Nguyên nhân của tình trạng này là do công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam như nêu ở trên là chưa phát triển.
Đến thời điểm hiện nay vẫn còn nhiều dự án FDI qui mô nhỏ nên hiệu quả của nguồn vốn FDI cũng như cũng như việc tiếp thu công nghệ cao từ các doanh nghiệp FDI bị hạn chế.
Tóm lại, để hướng tới việc xây dựng được một nền kinh tế tự chủ: Việt Nam cần có một nền công nghiệp hỗ trợ phát triển do chính cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam nắm giữ và điều hành.
- Nếu chọn ra một “bước ngoặt vàng” trong lịch sử thu hút FDI của Việt Nam, theo ông đó là thời điểm nào? Và vì sao nó tạo ra sự khác biệt ?
TS. Phan Hữu Thắng: Quay lại quá trình xây dựng hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt Nam, cho thấy có 3 mốc quan trọng nhất sau đây liên quan đến sự thận trọng - đổi mới tư duy vượt khó trong việc hình thành và xây dựng nên Luật Đầu tư hiện nay được áp dụng cho cả đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Đó là các cột mốc cụ thể sau:
Ngày 18/4/1977, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Điều lệ Đầu tư nước ngoài, đây chính là sự khởi đầu thận trọng đổi mới tư duy vượt khó. Tuy suốt 10 năm tồn tại trong bao vây cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam không có giấy phép đầu tư nào được cấp theo trình tự thủ tục được quy định trong điều lệ, nhưng sự mở đầu đổi mới tư duy này đã tạo tiền đề cho một giai đoạn phát triển mới;
Tháng 12/1987, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cơ bản, đầu tiên cho hoạt động thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng luật pháp quốc tế về đầu tư cũng như tôn trọng độc lập chủ quyền, tuân thủ pháp luật Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng có lợi. Từ 1987 đến nay Luật Đầu tư đã liên tục được hoàn thiện qua 7 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000, 2005, 2014, 2020;
Luật Đầu tư 2005 được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực từ ngày 1/7/2006 thay thế Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật khuyến khích đầu tư trong nước.

Nếu được chọn ra một “bước ngoặt vàng" trong lịch sử thu hút FDI của Việt Nam thì tôi chọn cột mốc thứ nhất đó là thời điểm ngày 18/4/1977, như trên đã nêu: "Chính phủ đã ban hành Điều lệ Đầu tư nước ngoài" vì đó là sự khởi đầu trong đổi mới tư duy phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn khó khăn nhất của Việt Nam sau chiến tranh nhiều năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trong bối cảnh hết sức khó khăn đó của đất nước, đổi mới tư duy để phát triển là cách duy nhất để vượt qua được khó, từ đó dẫn đến hai cột mốc cũng quan trọng vào các năm 1987 & 2005 nêu trên.
- Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Ông nghĩ chúng ta nên chuyển từ tư duy “thu hút FDI” sang “hợp tác FDI“ như thế nào để nâng cao vị thế quốc gia”?
TS. Phan Hữu Thắng: Xin nêu rõ việc đổi mới tư duy trong thu hút FDI giai đoạn tới cần thực hiện theo đúng nội dung đã được Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN nêu rõ tại Nghị Quyết 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 về “Định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng hiệu quả đầu tư nước ngoài đến năm 2030, đã xác định mục tiêu tổng quát đối với đầu tư nước ngoài giai đoạn hiện nay đến 2030 là:
Hoàn thiện thể chế, chính sách hợp tác đầu tư nước ngoài có tính cạnh tranh cao, hội nhập quốc tế; Đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, Cơ cấu lại nền kinh tế, bảo vệ môi trường.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội; Nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; Khắc phục căn bản những hạn chế, bất cập đang tồn tại trong xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện thể chế, chính sách hợp tác đầu tư nước ngoài; Tạo lập môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh thuộc nhóm ASEAN 3 trước năm 2030”.
Xin trân trọng cảm ơn ông!

01:58:00 PM GMT+7Thứ 5, 30/10/2025

01:55:00 PM GMT+7Thứ 5, 30/10/2025

01:53:00 PM GMT+7Thứ 5, 30/10/2025
Website nội bộ của VCCI
Liên kết nhanh
Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI
Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Kim Liên, Hà Nội, Việt Nam
Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023
Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI
| Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI | ||
| Văn Phòng - Lễ tân: | Phụ trách website: | Liên hệ quảng cáo: |
| 📞 + 84-24-35742022 | 📞 + 84-24-35743084 | 📞 + 84-24-35743084 |
| + 84-24-35742020 | vcci@vcci.com.vn | |
Truy cập phiên bản website cũ. Thiết kế và phát triển bởi ADT Global