Thứ 5, 04/12/2025 | English | Vietnamese
01:49:00 PM GMT+7Thứ 4, 03/12/2025
Ông Nguyễn Hồ Ngọc - Giám đốc đào tạo ATC Academy cho rằng, "mốc 500 triệu hiện nay chỉ thực sự phù hợp với các ngành có biên lợi nhuận rất cao. Nếu chỉ nhìn vào mức doanh thu mà không nhìn vào tỷ suất lợi nhuận, chính sách sẽ nặng tay với nhóm biên lợi nhuận thấp và nhẹ tay với nhóm biên lợi nhuận cao".
‘Nặng tay’ với nhóm lợi nhuận thấp nhưng ‘nhẹ tay’ với nhóm cao
Trong báo cáo gửi đến Chính phủ mới đây, Bộ Tài chính đã đề xuất, điều chỉnh mức doanh thu không phải nộp thuế lên 500 triệu đồng/năm (thay cho đề xuất 200 triệu đồng/năm trước đó), tức là gấp 5 lần so với mức đang áp dụng theo Luật Thuế TNCN hiện hành.
Tuy nhiên, nói quan điểm về con số này, ông Nguyễn Hồ Ngọc, Giám đốc đào tạo - Công ty TNHH Đào tạo và Tư vấn Á Châu (ATC Academy) cho biết, mốc 200 triệu áp dụng từ 2026 được cho là thấp, chưa phản ánh đúng thực tế thì nay Bộ Tài chính đề xuất nâng lên 500 triệu là một bước tiến.
Tuy nhiên, nếu nhìn sâu vào cấu trúc chi phí và biên lợi nhuận giữa các ngành, mức 500 triệu vẫn chưa phản ánh đúng khả năng nộp thuế của từng nhóm cá nhân kinh doanh.
Theo ông Ngọc, ở một góc khác cơ quan thuế cũng có hướng tiếp cận mới, đó là đưa các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn trung bình ngành vào diện giám sát kỹ hơn. Nghĩa là dữ liệu về biên lợi nhuận ngành đã được thu thập, phân tích, và sử dụng trong quản lý. Đây chính là “mảnh ghép” mà chính sách thuế với cá nhân, hộ kinh doanh có thể tận dụng, thay vì chỉ dùng một ngưỡng doanh thu duy nhất cho tất cả.
Trước hết, vị đại diện ATC Academy dẫn ví dụ thẳng vào các con số đơn giản. Một hộ kinh doanh tạp hóa, đại lý gạo, bán lẻ hàng thiết yếu thường chỉ có biên lợi nhuận ròng khoảng 5–7% doanh thu. Với doanh thu 500 triệu đồng một năm, lợi nhuận sau chi phí khoảng 25–35 triệu, tính ra bình quân tháng chưa tới 3 triệu. Mức thu nhập này thấp hơn nhiều so với ngưỡng giảm trừ bản thân mới của người lao động làm công ăn lương.
Ngược lại, một cá nhân kinh doanh dịch vụ nội dung số hoặc các dịch vụ có thể đạt biên lợi nhuận ròng 40–60%. Cũng với doanh thu 500 triệu, lợi nhuận sau chi phí có thể lên đến 200–300 triệu, tương đương 16–25 triệu mỗi tháng. Mức này cao hơn rõ rệt so với người làm công ăn lương chỉ đủ vượt qua ngưỡng miễn thuế.
Như vậy, ông Ngọc đánh giá, cùng mốc 500 triệu, nhưng người làm ngành biên lợi nhuận thấp chưa đạt đến mức thu nhập đủ sống đã rơi vào diện chịu thuế. Người làm ngành biên lợi nhuận cao lại được hưởng ưu thế so với người hưởng lương có cùng thu nhập ròng.
“Nếu mục tiêu là đánh thuế theo khả năng nộp thuế và đảm bảo công bằng ngang giữa các loại thu nhập, thì cách áp một ngưỡng doanh thu duy nhất cho mọi ngành đang tạo ra méo mó rõ rệt”, ông Ngọc đặt vấn đề.
Tiếp theo, ông Ngọc đặt câu hỏi, có nên dùng tỷ suất lợi nhuận bình quân ngành để xác định ngưỡng doanh thu?
Vị này phân tích, ý tưởng lấy tỷ suất lợi nhuận bình quân ngành rồi “suy ngược” ra ngưỡng doanh thu chịu thuế cho từng nhóm ngành có cơ sở rất rõ ràng. Cơ quan thuế hiện đã sử dụng dữ liệu lợi nhuận bình quân ngành để phát hiện doanh nghiệp có lãi thấp bất thường. Nếu ta chấp nhận rằng bộ số liệu này đủ tin cậy để lựa chọn đối tượng thanh tra, thì hoàn toàn có thể dùng nó để hiệu chỉnh chính sách với cá nhân kinh doanh bằng phương pháp sau.
Bước một, lựa chọn một mức thu nhập ròng tối thiểu mà cá nhân kinh doanh được coi là “bước vào vùng chịu thuế”. Ở đây, thay vì dùng cả giảm trừ bản thân và người phụ thuộc, ta chỉ dùng giảm trừ bản thân. Lý do rất đơn giản: số người phụ thuộc của mỗi cá nhân khác nhau, nếu đưa vào công thức ngưỡng doanh thu chung sẽ tạo ra một ngưỡng mơ hồ, khó áp dụng thống nhất.
Với mức giảm trừ bản thân 15,5 triệu/tháng, một cá nhân có thu nhập ròng 186 triệu/năm tương đương với người làm công ăn lương chỉ vừa chạm ngưỡng bị tính thuế. Ta có thể dùng con số 186 triệu này như “mức lợi nhuận tối thiểu” để xây dựng ngưỡng doanh thu không chịu thuế theo từng nhóm ngành.
Bước hai, dựa trên tỷ suất lợi nhuận ròng bình quân của từng nhóm ngành, suy ngược ra doanh thu tương ứng. Ví dụ, nếu ngành phân phối hàng hóa có biên lợi nhuận ròng bình quân 5%, thì doanh thu tương ứng với lợi nhuận 186 triệu sẽ vào khoảng 3,72 tỷ. Nếu ngành dịch vụ thông thường có biên lợi nhuận 20%, doanh thu tương ứng với cùng 186 triệu lợi nhuận sẽ khoảng 0,93 tỷ.
“Không cần một bộ số liệu cực kỳ chi tiết, chỉ cần phân loại theo các nhóm ngành trùng với nhóm tỷ lệ phần trăm trên doanh thu mà dự thảo đã đưa ra: phân phối hàng hóa, sản xuất – vận tải – xây dựng có bao thầu, dịch vụ, cho thuê tài sản và các hoạt động có biên lợi nhuận cao”, đại diện ATC nói sự phù hợp.
Bước ba, dựa vào các con số doanh thu suy ngược đó để xác lập ngưỡng thuế cho từng nhóm. Không nhất thiết phải chính xác tới từng đồng; có thể làm tròn theo các mốc 500 triệu, 1 tỷ, 1,5 tỷ, 2 tỷ… Điều quan trọng hơn là trật tự tương đối: nhóm thương mại có ngưỡng cao nhất, nhóm cho thuê tài sản và dịch vụ biên lợi nhuận cao có ngưỡng thấp hơn.
"Mốc 500 triệu hiện nay chỉ thực sự phù hợp với các ngành có biên lợi nhuận rất cao. Nếu chỉ nhìn vào mức doanh thu mà không nhìn vào tỷ suất lợi nhuận, chính sách sẽ “nặng tay” với nhóm biên lợi nhuận thấp và “nhẹ tay” với nhóm biên lợi nhuận cao", ông Nguyễn Hồ Ngọc đánh giá.
Để người nộp thuế lựa chọn chế độ kế toán phù hợp
Vấn đề tiếp theo, ông Ngọc nói, sẽ tìm phương xử lý câu chuyện người phụ thuộc như thế nào cho hợp lý.
Vấn đề phát sinh khi ta cố gắng đưa luôn số người phụ thuộc vào công thức ngưỡng doanh thu. Một người kinh doanh có ba con nhỏ sẽ có mức giảm trừ rất khác so với một người độc thân. Nếu lấy tổng giảm trừ (bản thân cộng người phụ thuộc) làm chuẩn, mỗi trường hợp sẽ cho ra một ngưỡng doanh thu khác nhau.
"Cơ quan thuế sẽ không thể xây dựng được một ngưỡng chung áp dụng cho toàn quốc", ông Ngọc khẳng định.
Do đó, ông Ngọc đề xuất cách giải quyết là tách hai tầng lựa chọn cho người nộp thuế. Tầng thứ nhất, ngưỡng doanh thu của chế độ đơn giản. Ngưỡng này nên được tính trên cơ sở chỉ xét giảm trừ bản thân, coi cá nhân kinh doanh như một người độc thân về mặt chuẩn hóa thống kê.
Như vậy, chính sách có một mốc thống nhất, đơn giản, dựa trên khả năng tự nuôi sống bản thân của người kinh doanh, không phụ thuộc vào việc họ có con hay không. Khi đã có ngưỡng doanh thu theo từng nhóm ngành dựa trên giảm trừ bản thân, mọi cá nhân kinh doanh đều được áp dụng như nhau trong chế độ tính thuế theo tỷ lệ % doanh thu. Đây là lựa chọn dành cho các hộ nhỏ, không có điều kiện lập sổ sách chi tiết, chấp nhận một mức thuế tương đối để đổi lấy sự đơn giản.
Tầng thứ hai, chế độ kế toán – sổ sách đầy đủ. Ở chế độ này, cá nhân kinh doanh được kê khai doanh thu – chi phí, xác định thu nhập tính thuế như một doanh nghiệp. Lúc này, họ được áp dụng đầy đủ giảm trừ bản thân và giảm trừ người phụ thuộc, giống như người làm công ăn lương. Nghĩa là người có nhiều người phụ thuộc sẽ được lợi hơn, đúng với nguyên tắc của thuế thu nhập cá nhân.
Từ đó, số người phụ thuộc không bước vào công thức xác định ngưỡng doanh thu chung, mà được xử lý ở tầng lựa chọn chế độ. Người có nhiều người phụ thuộc, nếu thấy thuế theo % doanh thu không phản ánh đúng hoàn cảnh, có thể chuyển sang chế độ sổ sách để được khấu trừ đầy đủ. Người không muốn làm sổ sách vẫn có quyền chọn chế độ đơn giản, đổi lại chấp nhận không được tính tới người phụ thuộc.
Cách thiết kế này vừa giữ được một khung ngưỡng doanh thu thống nhất, vừa không bỏ qua thực tế đời sống của người có người phụ thuộc, lại khuyến khích các cá nhân kinh doanh quy mô lớn, có thu nhập cao, tham gia chế độ kế toán chuẩn.
Chính sách thuế cần được thiết kế theo khả năng nộp thuế
Cuối cùng ông Ngọc kết luận, chính sách thuế cần đi từ doanh thu tới khả năng nộp thuế.
Nếu chỉ nhìn doanh thu, sẽ thấy 500 triệu là một con số không quá nhỏ. Nhưng nếu nhìn vào lợi nhuận ròng và đặt cạnh mức giảm trừ bản thân 15,5 triệu đồng/tháng, bức tranh sẽ khác hẳn. Một hộ kinh doanh tạp hóa với doanh thu 500 triệu có thể đang sống ở mức dưới ngưỡng chịu thuế, trong khi một cá nhân cho thuê tài sản với cùng doanh thu lại đang có thu nhập ròng cao gấp nhiều lần.
Dùng tỷ suất lợi nhuận bình quân ngành để suy ngược ngưỡng doanh thu chịu thuế, dựa trên giảm trừ bản thân, cho phép chính sách đi từ doanh thu danh nghĩa đến đúng câu hỏi trung tâm: người kinh doanh thực sự có khả năng nộp thuế ở mức nào. Việc tách riêng vấn đề người phụ thuộc sang chế độ sổ sách giúp hệ thống vừa giữ được sự gọn nhẹ, vừa không bỏ qua hoàn cảnh gia đình của người nộp thuế.
Ông Ngọc nhìn nhận, nếu đi theo hướng này, sẽ thấy một hệ thống thuế với cá nhân kinh doanh rõ ràng, nhất quán hơn với nguyên tắc công bằng ngang, đồng thời tận dụng được dữ liệu lợi nhuận bình quân ngành mà cơ quan thuế đã và đang xây dựng. Đây là bước tiến tự nhiên sau khi bỏ thuế khoán và mở rộng yêu cầu về hóa đơn, chứng từ, sổ sách cho khu vực kinh tế cá thể.
Dù dư luận đang rất nóng quanh câu chuyện “bỏ khoán, tính thẳng vào doanh thu”, nhưng đây là thời điểm tốt để các hộ kinh doanh và cơ quan thuế cùng ngồi lại với nhau. Nỗi lo của nhóm này là có thật: chi phí tăng, rủi ro kiểm tra nhiều hơn, quy định mới đọc đâu cũng thấy chữ “phạt”.
Nhưng nếu góp ý, nhìn nhận trên dữ liệu, tỷ lệ lợi nhuận thực tế của từng ngành, thì chính sách thuế sẽ không còn là điều gì mơ hồ, mà trở thành một bộ quy tắc rõ ràng để ai cũng tự tính được phần nghĩa vụ của mình. Một hệ thống thuế công bằng hơn không chỉ giúp ngân sách Nhà nước có nguồn thu ổn định, mà còn bảo vệ chính những người kinh doanh làm ăn chân chính.
Ông Nguyễn Hồ Ngọc cho rằng, khi thuế được thiết kế theo khả năng nộp thuế thực sự, người bán lẻ lãi mỏng không phải “gồng mình” như người cho thuê nhà lãi cao, người chịu rủi ro lớn, đầu tư dài hạn được nhìn nhận khác với người chỉ tận dụng cơ hội ngắn hạn. Đó là nền tảng cho một thị trường bình đẳng hơn, nơi chủ kinh doanh yên tâm tập trung vào khách hàng, vào sản phẩm, thay vì suốt ngày lo “mai thuế hỏi gì”.
Khung chính sách ba điểm cho nhóm hộ kinh doanh
Từ các phân tích trên, dựa vào kinh nghiệm công việc trong thực tiễn, ông Nguyễn Hồ Ngọc đề xuất với Bộ Tài chính một khung chính sách gồm ba điểm chính.
Một, xây dựng ngưỡng doanh thu không chịu thuế riêng theo từng nhóm ngành, dựa trên lợi nhuận ròng bình quân ngành và mức giảm trừ bản thân 15,5 triệu đồng/tháng. Ngưỡng cho nhóm phân phối hàng hóa nên cao hơn nhiều so với ngưỡng cho nhóm dịch vụ biên lợi nhuận cao. Điều này giúp bảo vệ nhóm hộ kinh doanh nhỏ trong lĩnh vực thương mại truyền thống, nơi doanh thu lớn nhưng lợi nhuận rất mỏng.
Hai, duy trì song song hai chế độ tính thuế. Chế độ tỷ lệ trên doanh thu, với ngưỡng theo từng nhóm ngành, dành cho hộ nhỏ và siêu nhỏ, ưu tiên đơn giản, dễ thực hiện. Chế độ sổ sách, cho phép khấu trừ đầy đủ bản thân và người phụ thuộc, dành cho cá nhân kinh doanh có quy mô, có thu nhập cao, hoặc muốn thể hiện đúng thực tế chi phí, lợi nhuận của mình. Cả hai chế độ đều nằm trong cùng một khung pháp lý, người nộp thuế được quyền lựa chọn và có thể chuyển đổi khi điều kiện thay đổi.
Ba, gắn chặt việc thiết kế tỷ lệ thuế suất trên doanh thu và ngưỡng doanh thu với dữ liệu lợi nhuận ngành mà cơ quan thuế đang sử dụng. Trong 3–5 năm, nên rà soát lại một lần, dựa trên số liệu kê khai thực tế của cả doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh. Nếu biên lợi nhuận ngành chuyển dịch, tỷ lệ và ngưỡng doanh thu cũng cần điều chỉnh tương ứng.
Như vậy, chính sách thuế với cá nhân, hộ kinh doanh không đứng yên mà bám sát biến động của nền kinh tế
Website nội bộ của VCCI
Liên kết nhanh
Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI
Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Kim Liên, Hà Nội, Việt Nam
Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023
Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI
| Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI | ||
| Văn Phòng - Lễ tân: | Phụ trách website: | Liên hệ quảng cáo: |
| 📞 + 84-24-35742022 | 📞 + 84-24-35743084 | 📞 + 84-24-35743084 |
| + 84-24-35742020 | vcci@vcci.com.vn | |
Truy cập phiên bản website cũ. Thiết kế và phát triển bởi ADT Global