VCCI logo

LIÊN ĐOÀN THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Vietnam Chamber of Commerce and Industry

Thứ 5, 24/04/2025 | English | Vietnamese

Trang chủTin tổng hợpTác động của thuế quan Mỹ tới chính sách tiền tệ của Việt Nam

Tác động của thuế quan Mỹ tới chính sách tiền tệ của Việt Nam

12:03:00 PM GMT+7Thứ 7, 19/04/2025

Nghiên cứu này là một chuyên đề của Series nghiên cứu về tác động của chính sách thuế quan mới của Chính phủ Mỹ tới nền kinh tế Việt Nam, được thực hiện bởi Viện NCKH Ngân hàng, Học viện Ngân hàng trong tháng 4/2025.

Một góc bến cảng nước sâu Lạch Huyện, Hải Phòng. Ảnh: TTXVN

Mở đầu

Ngày 3/4/2025, Chính quyền Mỹ bất ngờ công bố áp thuế nhập khẩu mới đối với hàng hóa từ 160 quốc gia. Từ ngày 5/4, mức thuế cơ bản 10% áp dụng cho mọi đối tác thương mại, và từ 9/4 mức thuế cao hơn đánh vào hơn 60 nước có thâm hụt thương mại lớn với Mỹ. Trong đó, Việt Nam chịu mức thuế “đối ứng” dự kiến lên tới 46% – mức gần cao nhất, chỉ sau một số ít nước. Động thái này gây cú sốc lớn cho Việt Nam, bởi Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Song song, căng thẳng thương mại leo thang khiến Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ (NDT) xuống mức thấp kỷ lục 17 năm, tạo sức ép cạnh tranh tiền tệ trong khu vực. Như vậy, chính sách tiền tệ của Việt Nam chịu sức ép cả từ lệnh áp thuế của chính phủ Mỹ cũng như những biện pháp đáp trả của các nền kinh tế lớn trên thế giới, đặc biệt là Trung Quốc vốn là một đối tác thương mại rất lớn của Việt Nam.

Bài viết này phân tích toàn diện tác động của những diễn biến trên đến kinh tế vĩ mô trong đó tập trung vào chính sách tiền tệ của Việt Nam; đồng thời đề xuất các giải pháp điều hành nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trong ngắn và trung hạn.

Tăng thuế quan của Mỹ tác động tới tỷ giá và dự trữ ngoại hối

Mức thuế 46% đánh vào hàng hóa Việt Nam là cực kỳ cao, vượt xa mọi dự báo trước đó. Đối với nhiều mặt hàng, mức thuế này gần như tước đi toàn bộ lợi thế giá của doanh nghiệp Việt Nam. Mỹ vốn là thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (khoảng 30% tổng kim ngạch). Do đó, 46% thuế sẽ khiến hàng loạt đơn hàng xuất khẩu sang Mỹ bị hủy hoặc giảm mạnh. Các mặt hàng điện tử, dệt may, giày dép, đồ gỗ, thủy sản… – vốn phụ thuộc nhiều vào thị trường Mỹ – chịu ảnh hưởng nặng nề. Chẳng hạn, Mỹ chiếm khoảng 17-20% kim ngạch thủy sản Việt Nam và gần 50% dệt may, giày dép; việc giá hàng Việt tăng đột biến sẽ làm sụt giảm nhu cầu tại Mỹ, khiến doanh nghiệp xuất khẩu đối mặt tình trạng thiếu đơn hàng trong tương lai. Thực tế, ngay sau thông báo thuế, nhóm cổ phiếu doanh nghiệp xuất khẩu trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã lao dốc, vốn hóa “bốc hơi” hàng trăm nghìn tỷ đồng chỉ sau vài phiên.

Việt Nam những năm qua hưởng lợi từ xu hướng dịch chuyển sản xuất (nhất là sau thương chiến Mỹ - Trung 2018), trở thành trung tâm sản xuất thu hút FDI lớn trong chiến lược “China +1”. Chỉ riêng quý I/2025, Việt Nam thu hút 11 tỷ USD vốn FDI đăng ký (tăng 35% so với cùng kỳ năm trước), giải ngân 5 tỷ USD (tăng 7%). Tuy nhiên, việc Mỹ áp thuế cao đặt ra rủi ro đảo ngược dòng vốn này. Các tập đoàn đa quốc gia sản xuất tại Việt Nam có thể chuyển một phần sản xuất hoặc xuất khẩu sang nước khác để né thuế. Điều này đồng nghĩa một phần dòng vốn ngoại hiện hữu có khả năng rút khỏi Việt Nam, và kế hoạch đầu tư mới cũng bị cân nhắc lại. Đặc biệt, FDI định hướng xuất khẩu (như điện tử, điện thoại, máy móc) sẽ dễ tổn thương nhất. Mô hình tăng trưởng dựa nặng vào xuất khẩu và FDI của Việt Nam vì thế đang cần được đánh giá lại một cách thấu đáo. Việc 72% kim ngạch xuất khẩu năm 2024 đến từ khu vực FDI cho thấy nếu dòng FDI suy giảm, sản xuất và việc làm sẽ chịu tác động dây chuyền. Tóm lại, thuế quan cao có thể khiến Việt Nam mất đi lợi thế thu hút FDI vào các ngành xuất khẩu, ảnh hưởng tiêu cực tới đầu tư và chuyển giao công nghệ trong trung hạn.

Dự trữ ngoại hối: Khi xuất khẩu và FDI – hai nguồn thu ngoại tệ chính – suy giảm, dự trữ ngoại hối sẽ đứng trước áp lực giảm tích lũy hoặc thậm chí phải sử dụng để can thiệp thị trường. Nếu thu ngoại tệ từ xuất khẩu giảm mạnh, NHNN sẽ khó gia tăng dự trữ, thậm chí phải bơm USD ra thị trường nhiều hơn để hỗ trợ đồng nội tệ. Hệ quả là dự trữ ngoại hối giảm, làm giảm “tấm đệm” an toàn của quốc gia trước cú sốc bên ngoài. Ngoài ra, cán cân vãng lai có thể chuyển sang thâm hụt nếu xuất khẩu giảm trong khi nhập khẩu (đặc biệt nguyên vật liệu, máy móc) chưa giảm tương ứng, khiến dự trữ ngoại tệ càng chịu sức ép.

Tỷ giá hối đoái: Đồng Việt Nam (VND) sẽ chịu áp lực mất giá đáng kể trước cú sốc thương mại này. Thặng dư thương mại với Mỹ sẽ giảm tương đối (do xuất khẩu giảm) có thể kéo tổng cán cân thanh toán xuống. Bên cạnh đó, tâm lý thị trường lo ngại dòng vốn rút đi có thể khiến tỷ giá USD/VND tăng cao. Thực tế theo báo cáo của VDSC năm 2024, VND đã mất giá khoảng 4,8% so với USD. Bước sang 2025, cú sốc thuế 46% sẽ tạo áp lực phá giá VND hơn nữa, do nhu cầu USD tăng (nhập khẩu không giảm ngay nhưng xuất khẩu tạo thu USD giảm, một số dữ liệu lịch sử đã cho thấy độ co giãn về thuế quan đối với xuất khẩu thường lớn gấp gần 3 lần nhập khẩu giữa Mỹ và Việt Nam). NHNN có thể đối mặt tình huống khó đó là: hoặc cho phép VND giảm giá mạnh để hỗ trợ xuất khẩu (nhưng sẽ làm Mỹ thêm nghi ngờ thao túng tiền tệ), hoặc duy trì tỷ giá ổn định bằng cách bán dự trữ và thắt chặt tiền tệ (nhưng sẽ tốn ngoại tệ và làm doanh nghiệp thêm khó khăn). Nhiều khả năng NHNN sẽ chọn cách điều chỉnh tỷ giá từ từ, có kiểm soát – cho VND mất giá ở mức chấp nhận được (~3-4%/năm) để phản ánh cung cầu, đồng thời tránh những biến động sốc. Tâm lý thị trường tài chính trong nước cũng bị ảnh hưởng: tỷ giá biến động tăng gây lo ngại trong doanh nghiệp và nhà đầu tư, đòi hỏi chính sách tiền tệ phải linh hoạt ứng phó nhằm ổn định kỳ vọng.

Tóm lại, việc Mỹ tăng thuế cao với Việt Nam đang gây sức ép lớn lên các cân đối vĩ mô: xuất khẩu suy giảm, FDI chững lại, dự trữ ngoại hối suy yếu và tỷ giá chịu áp lực mất giá. Chính sách tiền tệ Việt Nam do đó phải điều hành thận trọng, cân bằng giữa hỗ trợ tăng trưởng và ổn định tỷ giá trong bối cảnh biến động này.

Phản ứng đáp trả của Trung Quốc tác động tới tỷ giá và lãi suất

Phản ứng với diễn biến thuế quan từ phía Mỹ, Trung Quốc đã hạ giá đồng Nhân dân tệ xuống mức thấp nhất từ 2007 (khoảng 7,35 NDT/USD ngày 10/4/2025. Tính riêng trong tháng 4/2025, NDT đã mất giá 1,2% – tốc độ nhanh hiếm thấy – sau khi Mỹ leo thang áp thuế lên hàng Trung Quốc tới 125%. Việc Trung Quốc phá giá NDT mạnh nhất trong nhiều thập kỷ nhằm bù đắp thiệt hại do thuế quan Mỹ, giúp hàng xuất khẩu Trung Quốc rẻ hơn và quy đổi thu về nhiều NDT hơn. Động thái này tạo ra hiệu ứng lan tỏa tiêu cực đến Việt Nam trên hai phương diện: tỷ giá VND và lãi suất tiền đồng.

Bảng 1: Tỷ lệ mất giá hàng năm của VND và CNY so với USD (2020–2024)

Năm VND mất giá (%) CNY mất giá (%)
2020 0,2% 6,5%
2021 1,0% 2,0%
2022 3,5% 9,0%
2023 2,9% 1,4%
2024 4,5% 5,0%

Nguồn: Tổng hợp

Tỷ giá: Áp lực cạnh tranh buộc VND khó đứng yên khi NDT giảm giá mạnh. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam (~38% kim ngạch xuất nhập khẩu); họ nhập khẩu ~23% nông lâm thủy sản Việt Nam và cung cấp >30% hàng nhập khẩu của ta. Khi NDT mất giá, hàng Trung Quốc trở nên rẻ hơn đáng kể, đe dọa chiếm thị phần của hàng Việt Nam cả ở thị trường nội địa lẫn xuất khẩu sang nước thứ ba. Nếu VND không điều chỉnh giảm tương ứng, hàng Việt Nam sẽ đắt tương đối so với hàng Trung Quốc, làm suy yếu năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngược lại, hàng hóa Trung Quốc tràn vào Việt Nam với giá rẻ sẽ gây sức ép lên ngành sản xuất trong nước (ví dụ, dệt may, da giày nội địa có thể bị hàng Trung Quốc cạnh tranh mạnh hơn). Do vậy, sức ép phá giá VND tăng lên để “đuổi kịp” đà giảm của NDT, nhằm tránh việc VND lên giá thực sự so với NDT. Tuy nhiên, nếu VND phá giá quá nhanh hoặc quá mạnh, Việt Nam sẽ đối mặt nguy cơ bị Mỹ gắn mác thao túng tiền tệ cao hơn (Mỹ có thể hiểu rằng Việt Nam cố tình hạ giá để hỗ trợ xuất khẩu). Thêm nữa, VND mất giá sâu sẽ làm tăng giá các hàng hóa nhập khẩu thanh toán bằng USD (xăng dầu, nguyên liệu sản xuất từ các nước khác), tạo áp lực lạm phát nhập khẩu trong nước. Vì thế, NHNN phải rất thận trọng: nhiều khả năng sẽ neo giữ tỷ giá VND ổn định tương đối so với USD, chấp nhận để VND lên giá so với NDT ở một mức có thể chấp nhận, thay vì chạy đua phá giá.

Bảng 2: Các đối tác xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam năm 2024

Đối tác thương mại Xuất khẩu (tỷ USD) Nhập khẩu (tỷ USD) Cán cân thương mại (tỷ USD) Ghi chú
Mỹ 119,6 15,0 +104,6 Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 29,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Trung Quốc 60,6 144,3 -83,7 Thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 37,9% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Liên minh châu Âu 52,1 16,7 +35,4 Xuất khẩu sang EU tăng 19,3% so với năm trước.
Hàn Quốc 25,5 56,2 -30,7 Đối tác nhập khẩu lớn thứ hai của Việt Nam.
ASEAN 24,6 34,5 -9,9 Nhập siêu từ ASEAN tăng 18,9% so với năm trước.
Nhật Bản 24,6 21,4 +3,2 Xuất siêu sang Nhật Bản tăng 91,9% so với năm trước.
Singapore 8,58 23,09 -14,51 Kim ngạch thương mại hai chiều đạt 31,67 tỷ SGD, tăng 9,49% so với năm trước.

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam, Bộ Công Thương, Trung tâm WTO và Hội nhập.

Lãi suất: biến động tỷ giá và dòng vốn ngoại đòi hỏi NHNN cân nhắc điều chỉnh chính sách lãi suất phù hợp. Khi NDT giảm giá mạnh, dòng vốn có thể chảy khỏi Trung Quốc sang các nơi an toàn hơn (ví dụ về Mỹ, nơi lãi suất USD đang cao). Thị trường Việt Nam – dù quy mô nhỏ hơn – cũng có thể bị ảnh hưởng bởi làn sóng rút vốn khỏi các thị trường mới nổi châu Á. Để giữ chân dòng vốn và giảm áp lực lên VND, Việt Nam cần duy trì chênh lệch lãi suất VND-USD ở mức hợp lý. Điều này có nghĩa là NHNN khó có thể cắt giảm mạnh lãi suất trong ngắn hạn, dù nền kinh tế đang cần hỗ trợ. Lưu ý rằng lãi suất đồng USD có khả năng vẫn được FED duy trì ở mức cao trước áp lực của lạm phát. Nếu hạ lãi suất điều hành quá mức, tiền đồng sẽ kém hấp dẫn hơn, dễ dẫn đến hiện tượng nhà đầu tư rút vốn, tăng nhu cầu chuyển VND sang USD, gây thêm áp lực mất giá cho VND. Ngược lại, tăng lãi suất có thể hỗ trợ tỷ giá (do nắm giữ VND lợi suất cao hơn) nhưng lại làm chi phí vốn của doanh nghiệp tăng, càng bất lợi khi họ đã khó khăn vì xuất khẩu sụt giảm. Bài toán đặt ra là cân bằng: nhiều khả năng NHNN sẽ duy trì mặt bằng lãi suất liên ngân hàng và chính sách ở mức hợp lý để ổn định tỷ giá, nhưng cũng sẽ dùng các công cụ hỗ trợ thanh khoản khác để giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn rẻ hơn một cách có chọn lọc. Ví dụ, NHNN có thể bơm thanh khoản tạm thời qua thị trường mở nếu căng thẳng, hoặc sử dụng các gói tín dụng ưu tiên cho ngành chịu ảnh hưởng, thay vì hạ mạnh lãi suất cơ bản. Thực tế năm 2024, NHNN đã cố gắng giữ lãi suất điều hành ổn định và kiểm soát lãi suất thị trường mở, đồng thời hút bớt tiền khi cần để hỗ trợ tỷ giá. Trong bối cảnh mới, NHNN có thể sẽ duy trì lãi suất tái cấp vốn ở mức hiện tại, theo dõi sát chênh lệch lãi suất VND-USD và chỉ giảm lãi suất nếu áp lực tỷ giá giảm rõ rệt.

Tóm lại, việc Trung Quốc phá giá NDT mạnh đang gây hiệu ứng dây chuyền: VND chịu áp lực giảm giá và NHNN phải đánh đổi giữa ổn định tỷ giá và hỗ trợ tăng trưởng qua lãi suất. Chính sách tiền tệ Việt Nam cần linh hoạt “đi trên dây”: điều chỉnh tỷ giá từng bước, kết hợp công cụ lãi suất và can thiệp ngoại hối hợp lý để vừa giữ được ổn định, vừa không làm doanh nghiệp kiệt quệ.

Một số gợi ý về chính sách tiền tệ góp phần ổn định vĩ mô

Trước những cú sốc bên ngoài chưa từng có, chính sách tiền tệ của Việt Nam cần được điều hành chủ động, linh hoạt nhưng thận trọng hơn bao giờ hết. Dưới đây là các định hướng và biện pháp chính để ổn định kinh tế vĩ mô:

(a) Điều hành tỷ giá linh hoạt, thận trọng: NHNN nên tiếp tục chính sách tỷ giá trung tâm linh hoạt theo sát diễn biến thị trường, cho phép VND dao động trong biên độ cho phép, nhưng sẵn sàng can thiệp để ngăn chặn biến động quá mức. Cụ thể, trong ngắn hạn có thể nâng nhẹ tỷ giá trung tâm (tức để VND yếu đi từ từ) phù hợp với rổ tiền tệ, phản ánh mức mất giá chung của các đồng tiền châu Á khác, tránh để VND quá mạnh tương đối. Tuy nhiên, NHNN cần tránh điều chỉnh đột ngột. Cách tiếp cận “xoay xở nhỏ giọt” này giúp giảm thiểu khả năng Mỹ cho rằng Việt Nam “dìm” giá VND. Đồng thời, NHNN nên tích cực giao tiếp với giới đầu tư và doanh nghiệp để ổn định kỳ vọng tỷ giá, nhấn mạnh rằng sẽ không có phá giá mạnh, nhờ đó giảm tình trạng găm giữ ngoại tệ hoặc đầu cơ. Khi cần thiết (ví dụ nếu tỷ giá tiến gần trần biên độ hoặc biến động quá nhanh), NHNN sẽ bán ngoại tệ can thiệp để bình ổn. Ngoài ra, NHNN có thể mở rộng hợp tác với các ngân hàng trung ương khác (ASEAN, Nhật, Hàn Quốc) để thiết lập các đường hoán đổi tiền tệ (swap) nhằm hỗ trợ thanh khoản ngoại tệ trong trường hợp khẩn cấp. Về dài hạn, đa dạng hóa thị trường ngoại hối – khuyến khích thanh toán xuất nhập khẩu bằng các đồng tiền khác (NDT, JPY, EUR) trong khuôn khổ cho phép – cũng giúp giảm phụ thuộc USD và áp lực tỷ giá USD/VND. Tựu trung, thận trọng nhưng không cứng nhắc là nguyên tắc: duy trì ổn định tương đối của VND để góp phần kiểm soát lạm phát và nợ nước ngoài, nhưng cũng chấp nhận một mức mất giá cần thiết để hỗ trợ xuất khẩu trong khuôn khổ Mỹ có thể chấp nhận (có thể ~3-4%/năm).

(b) Chính sách lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp nhưng kiểm soát lạm phát: NHNN cần cân bằng giữa mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng và kiềm chế lạm phát trong môi trường nhiều biến động. Một mặt, các ngành xuất khẩu đang tổn thương nặng nề cần được tiếp cận vốn vay với lãi suất hợp lý để cầm cự vượt qua giai đoạn khó khăn. Mặt khác, nếu nới lỏng tiền tệ quá mức có thể gây áp lực tỷ giá và lạm phát (do VND yếu hơn, giá nhập khẩu tăng). Do đó, NHNN có thể áp dụng các biện pháp hỗ trợ lãi suất có chọn lọc. Chẳng hạn, triển khai gói tín dụng ưu đãi lãi suất thấp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực xuất khẩu chịu ảnh hưởng hoặc ưu tiên phát triển (dệt may, thủy sản, công nghệ…), cũng có thể tái cấp vốn với lãi suất ưu đãi cho các ngân hàng có dư nợ lớn cho những ngành này, kèm điều kiện ngân hàng giảm lãi suất cho vay. Đồng thời, duy trì lãi suất điều hành ổn định ở mức hợp lý: hiện tại mặt bằng lãi suất đã giảm so với 2022, nên việc giảm thêm cần cân nhắc kỹ. Nếu lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát (dưới mục tiêu ~4-4,5%) và tỷ giá không quá căng, NHNN có thể xem xét giảm nhẹ lãi suất tái chiết khấu hoặc trần lãi suất tiền gửi để kích thích tín dụng. Tuy nhiên, biên độ giảm có lẽ chỉ 0,5-1 điểm % để tránh cú sốc cho tỷ giá. Trong trường hợp xấu (tỷ giá biến động mạnh), NHNN sẵn sàng tăng lãi suất thị trường mở/ngân hàng liên ngân hàng tạm thời để hút tiền, bảo vệ VND. NHNN nên thông báo rõ sẽ điều chỉnh chính sách lãi suất tùy theo diễn biến lạm phát và tỷ giá, giúp định hướng kỳ vọng thị trường. Thêm nữa, kết hợp công cụ khác ngoài lãi suất: ví dụ, nới hạn mức tín dụng (room) cho ngân hàng nào hạ lãi suất cho vay tích cực.

(c) Ổn định dự trữ ngoại hối và kiểm soát dòng vốn: Dự trữ ngoại hối là “ví tiền” quốc gia để đối phó cú sốc, do đó việc ổn định và tăng cường dự trữ rất quan trọng. Trong ngắn hạn, NHNN nên ưu tiên hạn chế bán ngoại tệ tối đa, chỉ can thiệp khi thật cần thiết, tránh làm suy giảm nhanh kho dự trữ. Song song, tranh thủ các thời điểm thuận lợi (ví dụ nếu có tháng thặng dư cao hoặc dòng vốn vào tăng) để mua vào ngoại tệ bổ sung dự trữ. Một điểm tích cực là kiều hối và viện trợ đang tiếp tục chảy về: năm 2024, kiều hối về Việt Nam ước đạt 16 tỷ USD đây là nguồn ngoại tệ quan trọng có thể dùng để tăng dự trữ ngoại hối. NHNN cần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, Việt kiều gửi ngoại hối (bằng cách giữ ổn định tỷ giá, lãi suất USD trong nước cạnh tranh) để hấp dẫn dòng kiều hối và chuyển khoản. Về kiểm soát dòng vốn, trong bối cảnh nhạy cảm, Việt Nam có thể tạm thời thắt chặt quản lý các giao dịch vốn ngắn hạn: giám sát chặt dòng vốn ra, đặc biệt là chuyển giá, rút vốn ngầm của một số doanh nghiệp FDI hoặc dòng tiền đầu cơ. NHNN phối hợp với Bộ Tài chính để kiểm soát việc doanh nghiệp vay ngoại tệ nước ngoài, tránh tình trạng vay ngoại tệ ồ ạt rồi bán ra gây sức ép lên VND, cũng như việc rút lợi nhuận của doanh nghiệp FDI phải tuân thủ triệt để Thông tư 06/2019/TT-NHNN. Nếu xuất hiện dấu hiệu găm giữ USD trong dân cư hay doanh nghiệp (do tâm lý sợ VND mất giá), NHNN có thể ban hành các biện pháp hành chính như yêu cầu bán ngoại tệ thu được trong thời hạn nhất định, hoặc tăng cường kiểm tra hoạt động thu đổi ngoại tệ phi chính thức.

(d) Phối hợp chính sách tài khóa và các chính sách khác: Ổn định vĩ mô không thể chỉ dựa vào chính sách tiền tệ; cần có sự phối hợp đồng bộ với chính sách tài khóa, thương mại. Trước hết, Chính phủ có thể sử dụng chính sách tài khóa hỗ trợ các ngành bị ảnh hưởng: như giảm thuế, phí trong nước (thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp) tạm thời cho doanh nghiệp dệt may, thủy sản…; gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất cho các cơ sở sản xuất gặp khó. Các gói kích cầu đầu tư công cũng cần đẩy mạnh hơn nữa: giải ngân nhanh các dự án hạ tầng, tạo công ăn việc làm và tăng cầu nội địa, bù đắp một phần cầu bên ngoài sụt giảm. Chính phủ cũng nên xem xét miễn giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu đầu vào (đặc biệt từ Mỹ) để vừa hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí, vừa thể hiện thiện chí với Mỹ trong việc giảm thặng dư. Một mặt khác, có thể tăng cường hàng rào kỹ thuật kiểm soát hàng nhập khẩu từ Trung Quốc nếu cần bảo vệ sản xuất trong nước trước làn sóng hàng giá rẻ do NDT mất giá (tất nhiên phải khéo léo để không vi phạm cam kết WTO). Quan trọng, chính sách tài khóa cần phối hợp nhịp nhàng với tiền tệ: ví dụ, nếu tiền tệ phải thắt chặt để giữ tỷ giá, thì tài khóa nên nới lỏng (tăng chi tiêu kích thích) để tránh kinh tế suy giảm quá mức. Ngược lại, nếu tiền tệ phải nới lỏng (để cứu tăng trưởng), tài khóa nên thận trọng để tránh tạo lạm phát. Ngoài ra, chính sách thương mại và công nghiệp cũng phải vào cuộc: thúc đẩy tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới (thông qua các FTA đã có như CPTPP, EVFTA…), hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin thị trường, xúc tiến thương mại điện tử, v.v.

Kịch bản ứng phó trong ngắn và trung hạn

Tình hình căng thẳng thương mại và tiền tệ có thể diễn biến theo nhiều chiều, do đó Việt Nam cần chuẩn bị các kịch bản ứng phó linh hoạt cho cả ngắn hạn và trung hạn:

Kịch bản 1: Leo thang cao (xấu nhất). Trong kịch bản này, căng thẳng thương mại tiếp tục leo thang: Mỹ duy trì lâu dài thuế 46% với Việt Nam (thậm chí xem xét mở rộng danh mục hoặc tăng thêm), đồng thời xung đột Mỹ-Trung không hạ nhiệt khiến Trung Quốc có thể phá giá NDT sâu hơn (vượt mốc 7,5 NDT/USD). Nếu điều này xảy ra, tác động ngắn hạn sẽ rất nặng nề: xuất khẩu Việt Nam có thể giảm mạnh quý sau, doanh nghiệp thiếu đơn hàng, thất nghiệp tăng trong các khu công nghiệp. Tỷ giá USD/VND có nguy cơ vượt trần biên độ 5% nếu thị trường hoảng loạn.

Phản ứng trong ngắn hạn: NHNN phải ưu tiên ổn định tình hình tài chính – tiền tệ. Cụ thể, sẵn sàng bán một lượng lớn ngoại tệ để bình ổn tỷ giá, thậm chí thu hẹp biên độ tỷ giá nếu cần thiết để ngăn VND mất giá quá nhanh. Song song, tăng lãi suất liên ngân hàng và thực hiện nghiệp vụ thị trường mở hút tiền nhằm neo giữ kỳ vọng VND. Chính phủ có thể công bố gói hỗ trợ khẩn cấp cho lao động mất việc (trợ cấp thất nghiệp, đào tạo lại) để giảm cú sốc xã hội. Đồng thời, đẩy mạnh đàm phán ngoại giao cấp cao với Mỹ: như trường hợp này, Việt Nam có thể đề xuất những nhượng bộ lớn (tăng nhập khẩu máy bay, năng lượng từ Mỹ, kiểm soát hàng “đội lốt” xuất xứ Việt Nam) để đổi lấy việc Mỹ xem xét giãn hoặc giảm thuế.

Ở trung hạn, nếu xung đột vẫn tiếp diễn, Việt Nam phải chấp nhận tái cấu trúc nền kinh tế sâu rộng: chuyển hướng mạnh sang thị trường khác (Ấn Độ, Trung Đông, Nam Mỹ…); khuyến khích doanh nghiệp FDI đa dạng hóa thay vì tập trung sản xuất chỉ để xuất sang Mỹ; và đầu tư hơn nữa cho tự chủ nguyên phụ liệu để tham gia chuỗi giá trị cao hơn. Về chính sách tiền tệ trung hạn, có thể tính đến việc nới lỏng có kiểm soát nếu suy thoái xuất khẩu kéo dài – ví dụ giảm lãi suất để kích thích tiêu dùng nội địa bù đắp, nhưng kết hợp biện pháp quản lý vốn để tránh dòng tiền rút ra. Kịch bản xấu này đòi hỏi Việt Nam chuyển trạng thái từ “phòng thủ” sang “tái tạo” mô hình tăng trưởng, giảm mạnh lệ thuộc vào hai thị trường Mỹ-Trung.

Kịch bản 2: Căng thẳng kéo dài trung bình (cơ sở). Đây là kịch bản có xác suất cao: thuế quan Mỹ giữ ở mức cao trong vài quý nhưng không tăng thêm, và Trung Quốc sau khi phá giá mạnh ban đầu sẽ ổn định NDT quanh mức 7,2–7,3. Ở đây, cú sốc ban đầu diễn ra trong nửa đầu 2025 (như hiện tại), sau đó tình hình “bình thường mới”: hàng Việt khó vào Mỹ, buộc phải tìm thị trường khác; NDT yếu hơn trước ~5-7%. Phản ứng ngắn hạn: Việt Nam vẫn cần ổn định tâm lý thị trường trong nước, nhưng cường độ có thể nhẹ hơn kịch bản xấu. NHNN có thể cho VND mất giá dần theo rổ tiền tệ (có tính đến NDT) khoảng 2-3% trong 6 tháng, chấp nhận mức VND lên giá tương đối so với NDT ở mức vừa phải. Lãi suất có thể giữ ổn định hoặc hạ rất nhẹ về cuối năm 2025 để hỗ trợ tăng trưởng nếu lạm phát cho phép.

Phản ứng trung hạn: Chính sách vĩ mô tập trung thích ứng. Chính phủ sẽ đẩy mạnh chương trình đa dạng hóa thị trường xuất khẩu: tận dụng 17 FTA đã ký (EVFTA, CPTPP, RCEP…), hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến ở các thị trường mới (Trung Đông, Nam Á, Châu Phi). Thêm vào đó, khuyến khích doanh nghiệp chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu nội địa – với dân số 100 triệu, thị trường Việt Nam có dư địa để các doanh nghiệp khai thác, giảm bớt phụ thuộc xuất khẩu. NHNN trong trung hạn có thể dần nới lỏng tiền tệ thận trọng: chẳng hạn, nếu áp lực tỷ giá giảm (nhờ cán cân xuất nhập khẩu dần cân bằng mới), NHNN có thể cắt lãi suất điều hành 0,5-1% để kích thích đầu tư trong nước. Song song, tiếp tục tích lũy ngoại hối khi có cơ hội để tăng “sức đề kháng.

Kịch bản 3: Hạ nhiệt (tốt nhất). Trong kịch bản lạc quan, qua đàm phán, Mỹ giảm về mức dưới 15% hoặc gỡ bỏ thuế 46% sớm (có thể trong vòng 3-6 tháng) đổi lại Việt Nam nhượng bộ một số lĩnh vực; đồng thời tình hình quốc tế ổn định dần, NDT ngừng mất giá và hồi phục nhẹ. Khi đó, xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ có cơ hội khôi phục một phần vào cuối 2025, niềm tin nhà đầu tư quay lại. Phản ứng ngắn hạn: Dù hạ nhiệt, thiệt hại đã xảy ra vài tháng nên chính sách vẫn cần hỗ trợ phục hồi. NHNN có thể giảm dần lãi suất để kích thích tín dụng sản xuất – kinh doanh, chẳng hạn hạ lãi suất tái cấp vốn 0,5% và chỉ đạo ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay thêm để doanh nghiệp sớm khôi phục năng lực sản xuất khi đơn hàng quay lại. Về tỷ giá, nếu USD suy yếu khi căng thẳng giảm, NHNN có thể tranh thủ mua vào ngoại tệ nâng dự trữ (đồng thời giúp VND không lên giá quá mạnh làm mất lợi thế xuất khẩu).

Phản ứng trung hạn: Trường hợp thuận lợi này cho phép Việt Nam tập trung trở lại các mục tiêu cải cách dài hạn. Chính sách tiền tệ có thể quay về trạng thái hỗ trợ tăng trưởng nhiều hơn, lãi suất duy trì ở mức thấp để thúc đẩy đầu tư, nhưng vẫn cảnh giác với lạm phát. Với bài học từ cú sốc thuế quan, Việt Nam trong trung hạn sẽ chủ động thực hiện những cải cách cơ cấu đã đề ra: phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước (để giảm phụ thuộc nguyên liệu Trung Quốc), khuyến khích doanh nghiệp FDI nâng tỷ lệ nội địa hóa, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt. Đồng thời, tiếp tục hợp tác với Mỹ về ổn định cán cân thương mại (nhập khẩu thêm nông sản, công nghệ từ Mỹ) nhằm ngăn nguy cơ tái diễn xung đột thương mại. Kết hợp các nỗ lực đó, kinh tế Việt Nam có thể quay lại quỹ đạo tăng trưởng cao sau khi vượt qua biến cố, với nền tảng cân bằng hơn giữa các thị trường xuất khẩu.

Tất nhiên, thực tế có thể diễn ra ở trạng thái giữa các kịch bản trên. Việt Nam cần duy trì tinh thần chủ động, linh hoạt. Các kịch bản được chuẩn bị giúp nhà điều hành không bị động và có đối sách phù hợp tùy tình huống. Như Thủ tướng Chính phủ từng nhấn mạnh, phải “chuẩn bị cho khả năng chiến tranh thương mại thế giới diễn ra”, tức luôn sẵn sàng về chính sách để bảo vệ lợi ích quốc gia trong mọi hoàn cảnh. Thời gian tới, ổn định kinh tế vĩ mô vẫn là ưu tiên hàng đầu. Chính sách tiền tệ – tài khóa cần phối hợp chặt chẽ, đảm bảo các mục tiêu: kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá, hỗ trợ tăng trưởng hợp lý và giữ vững niềm tin nhà đầu tư. Với những kinh nghiệm tích lũy và dư địa chính sách còn lại, Việt Nam có cơ sở để vượt qua giai đoạn sóng gió này, biến thách thức thành động lực cải cách, hướng tới một nền kinh tế độc lập tự chủ và bền vững hơn trong trung hạn.

*Phó Viện trưởng Viện NCKH Ngân hàng, Học viện Ngân hàng

TheoPGS.TS. PHẠM MẠNH HÙNG / Tạp chí điện tử Nhà đầu tư
Copy link

Văn bản pháp luật

Liên kết

Website nội bộ của VCCI

Footer logo

Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI 

  Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam

Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023

Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI

Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI
Văn Phòng - Lễ tân:  Phụ trách website: Liên hệ quảng cáo:
📞 + 84-24-35742022 📞 + 84-24-35743084 📞 + 84-24-35743084
 + 84-24-35742020   vcci@vcci.com.vn   

Truy cập phiên bản website cũ.                                                     Thiết kế và phát triển bởi ADT Global