Thứ 7, 06/09/2025 | English | Vietnamese
02:12:00 PM GMT+7Thứ 4, 03/09/2025
GS.TS Lê Anh Tuấn – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nhấn mạnh, để phát triển công nghệ chiến lược và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, Việt Nam cần một mô hình hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước, viện – trường và doanh nghiệp, trong đó đào tạo nhân lực chất lượng cao là nền tảng then chốt, tạo ra đội ngũ đủ năng lực triển khai chính sách, vận hành công nghệ, và đưa sản phẩm nghiên cứu ra thị trường.
Theo Tổng cục Thống kê, đến năm 2023 có khoảng 52,4 triệu người lao động Việt Nam từ 15 tuổi trở lên, tức trên 50% tổng quy mô dân số, trong đó số người được đào tạo cao đẳng, đại học trở lên chỉ chiếm 12,7%, có nghĩa những người được đào tạo bài bản để tham gia vào xã hội. Tỷ lệ này rất thấp so với nhiều nước khác. Đơn cử các nước gần Việt Nam như Thái Lan và các nước phát triển, tỷ lệ này có thể đạt 40-50%.
Trong bối cảnh mới, khi nước ta muốn thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, nhiệm vụ hàng đầu là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, trong đó đào tạo sau phổ thông cần được quan tâm một cách thích đáng.
GS.TS. Lê Anh Tuấn đưa ra một nghịch lý, hiện nay các trường đại học tự chủ kinh tế, không do nhà nước cấp tài chính, dẫn tới việc các trường thay vì nâng cao chất lượng, đào tạo trình độ cao thì phải tăng quy mô tuyển sinh đại học rất nhiều. Trong khi tuyển sinh sau đại học lại không có. Bởi sau đại học là bậc mà người học không phải trả tiền, mà là chính phủ phải trả tiền cho người học, vì ở bậc này họ sáng tạo khoa học, mang lại giá trị cho xã hội. Nếu như nhà nước đầu tư như vậy thì các trường rất yên tâm đào tạo, tạo động lực cho người học trong quá trình nghiên cứu và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
GS.TS Lê Anh Tuấn dẫn chứng kinh nghiệm từ Hàn Quốc và Canada. Tại Hàn Quốc, chính phủ không chỉ đưa ra chính sách hỗ trợ mà còn trực tiếp đặt hàng công nghệ phục vụ các ngành mũi nhọn, từ đó tạo động lực cho doanh nghiệp đầu tư sản xuất.
Các trường đại học, viện nghiên cứu vừa là nơi sáng tạo tri thức, vừa đào tạo nhân lực chất lượng cao, đồng thời phát triển công nghệ nền tảng. Doanh nghiệp trở thành “đầu kéo”, đưa sản phẩm ra thị trường và mở rộng quy mô ứng dụng. Nhờ mô hình này, Hàn Quốc đã nhanh chóng vươn lên trở thành quốc gia công nghiệp hóa thành công, nổi bật trong nhiều lĩnh vực công nghệ cao.
Canada cũng có cách tiếp cận tương tự khi xây dựng mạng lưới trung tâm nghiên cứu quốc gia, thúc đẩy thương mại hóa thông qua hệ sinh thái đổi mới mở. Chính phủ đầu tư hạ tầng, trường đại học và viện nghiên cứu sản sinh tri thức, còn doanh nghiệp chịu trách nhiệm thử nghiệm và phân phối sản phẩm. Mô hình này giúp rút ngắn khoảng cách giữa phòng thí nghiệm và thị trường, bảo đảm rằng các công trình nghiên cứu không chỉ dừng lại ở các bài báo khoa học mà có thể chuyển hóa thành sản phẩm thương mại có giá trị.
Từ những kinh nghiệm này, GS.TS Lê Anh Tuấn đề xuất Việt Nam cần xây dựng mô hình “3 nhà” phù hợp với bối cảnh trong nước. Cụ thể, nhà nước phải đóng vai trò kiến tạo, với việc đầu tư hạ tầng nghiên cứu, ban hành chính sách và định hướng chiến lược, đồng thời đặt hàng công nghệ cho các ngành ưu tiên. Viện nghiên cứu và trường đại học phải đảm nhận vai trò sáng tạo, tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực, phát triển công nghệ nền tảng và tạo ra tri thức mới. Doanh nghiệp giữ vai trò đầu kéo, chịu trách nhiệm thương mại hóa sản phẩm, tổ chức sản xuất và phân phối, từ đó biến kết quả nghiên cứu thành hàng hóa, dịch vụ phục vụ xã hội.
Bài học từ các quốc gia phát triển cho thấy chỉ khi ba bên phối hợp đồng bộ thì chuỗi giá trị đổi mới sáng tạo mới được hình thành một cách khép kín. Nếu thiếu chính sách định hướng của nhà nước, tri thức hàn lâm từ viện – trường, hay vai trò đầu kéo của doanh nghiệp, sản phẩm công nghệ sẽ khó có thể đi xa. Chính vì vậy, xây dựng cơ chế hợp tác “3 nhà” không chỉ là một khẩu hiệu mà phải trở thành một phương thức vận hành thực chất.
Trong tam giác hợp tác này, đào tạo nhân lực chất lượng cao được coi là nền tảng then chốt, tạo ra đội ngũ đủ năng lực triển khai chính sách, vận hành công nghệ, cũng như đưa sản phẩm nghiên cứu ra thị trường.
Về khái niệm hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mở, theo GS.TS Tuấn, Việt Nam cần xây dựng hệ sinh thái đa tầng, từ cấp cơ sở (trường, viện), đến cấp địa phương và quốc gia, tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các thành phần. Chỉ như vậy, kết quả nghiên cứu từ phòng thí nghiệm mới có thể nhanh chóng tìm được doanh nghiệp để ứng dụng, đồng thời nhận được sự hỗ trợ vốn và chính sách từ nhà nước.
Ông lấy ví dụ về BK Innovation Park – khu đổi mới sáng tạo thuộc Đại học Bách khoa Hà Nội – nằm trong chiến lược phát triển, nơi quy tụ phòng thí nghiệm, startup công nghệ, quỹ đầu tư và các chương trình hợp tác quốc tế. Mô hình này cho thấy, khi trường đại học trở thành trung tâm sáng tạo, doanh nghiệp và nhà đầu tư sẽ có cơ hội tiếp cận trực tiếp với nguồn ý tưởng và nhân lực trẻ. Nhiều startup trong lĩnh vực công nghệ thông tin, năng lượng, vật liệu mới đã hình thành từ môi trường này, chứng minh tính hiệu quả của sự kết nối.
Theo GS.TS Tuấn, cần nhân rộng mô hình như BK Innovation Park ra các trường đại học lớn khác, đồng thời kết nối với các hệ sinh thái cấp địa phương và quốc gia. Đây sẽ là đòn bẩy để tạo ra mạng lưới đổi mới sáng tạo toàn diện, nơi kết quả nghiên cứu không bị “chết yểu” trong ngăn tủ mà có cơ hội đi ra thị trường.
Ông cũng nhấn mạnh vai trò đặc biệt của Hà Nội – nơi tập trung nhiều trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp công nghệ. Hà Nội, theo ông, có đủ điều kiện để trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo của cả nước, thậm chí là một cực phát triển công nghệ chiến lược ở khu vực Đông Nam Á. Thành phố nên ưu tiên các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), năng lượng mới, công nghệ sinh học và vật liệu tiên tiến. Đây không chỉ là những hướng đi phù hợp với xu thế toàn cầu mà còn có khả năng tạo đột phá cho nền kinh tế Việt Nam.
GS.TS Lê Anh Tuấn nhấn mạnh: “Chỉ khi có sự đồng hành thực chất của cả ba bên – nhà nước, viện – trường và doanh nghiệp – thì kết quả nghiên cứu mới thực sự bước ra khỏi phòng thí nghiệm để trở thành sản phẩm có giá trị cho xã hội.”
Theo ông, thương mại hóa kết quả nghiên cứu là bước đi tất yếu nếu Việt Nam muốn tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Nhưng điều đó không thể thành công nếu thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhân lực chính là “chìa khóa mở cửa” để biến chính sách thành hành động, biến tri thức thành sản phẩm, và biến sản phẩm thành giá trị kinh tế.
Ông cũng nhấn mạnh, đào tạo nhân lực không chỉ dừng ở việc cung cấp kiến thức hàn lâm. Trường đại học cần gắn đào tạo với nhu cầu của doanh nghiệp, đưa sinh viên tham gia các dự án nghiên cứu, khởi nghiệp ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Đây là cách để tạo ra thế hệ kỹ sư, nhà khoa học, nhà quản lý có khả năng thích ứng nhanh, sáng tạo và sẵn sàng hội nhập quốc tế.
GS.TS Tuấn kỳ vọng rằng, nếu mô hình liên kết “3 nhà” được triển khai quyết liệt, Việt Nam có thể hình thành những trung tâm công nghệ chiến lược, nơi các kết quả nghiên cứu nhanh chóng trở thành sản phẩm thương mại, dịch vụ có sức cạnh tranh toàn cầu. Đó cũng là con đường để đất nước tiến tới nền kinh tế dựa trên tri thức và đổi mới sáng tạo – nền tảng cho mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào giữa thế kỷ XXI.
01:28:00 PM GMT+7Thứ 6, 05/09/2025
01:17:00 PM GMT+7Thứ 6, 05/09/2025
01:15:00 PM GMT+7Thứ 6, 05/09/2025
Website nội bộ của VCCI
Liên kết nhanh
Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI
Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023
Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI
Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI | ||
Văn Phòng - Lễ tân: | Phụ trách website: | Liên hệ quảng cáo: |
📞 + 84-24-35742022 | 📞 + 84-24-35743084 | 📞 + 84-24-35743084 |
+ 84-24-35742020 | vcci@vcci.com.vn |
Truy cập phiên bản website cũ. Thiết kế và phát triển bởi ADT Global