Thứ 5, 30/01/2025 | English | Vietnamese
09:56:00 AM GMT+7Thứ 3, 28/01/2025
Xuất thân hoàn cảnh nghèo khó, bước vào đời với nghề thư ký, rồi đốc công cho doanh nghiệp Pháp, Bạch Thái Bưởi đã mau chóng gây dựng và phát triển sự nghiệp riêng, trở thành biểu tượng cho sự thành công của tư sản Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Cho tới giữa thế kỷ XIX, hoạt động kinh doanh vận tải đường thủy ở Việt Nam còn khá hạn chế và phần lớn do các Hoa thương kiểm soát. Từ khi Pháp xâm lược và thiết lập chế độ cai trị thực dân ở Việt Nam, hoạt động vận tải quốc tế của đất nước hầu như do người Pháp nắm độc quyền, trong khi dịch vụ vận tải đường thủy nội địa vẫn chịu sự chi phối của người Hoa và một số công ty vận tải của Pháp. Do những hạn chế về vốn, trình độ kỹ thuật, năng lực quản lý và đặc biệt là tinh thần khởi nghiệp (entrepreneurship), người Việt hầu như đứng ngoài hoạt động kinh doanh vận tải giao thông đường thủy. Phải tới đầu thế kỷ XX, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, cùng với đó là sự xuất hiện tầng lớp tư sản bản địa, lĩnh vực vận tải đường thủy mới thu hút sự quan tâm của người Việt. Trong số những nhà tư sản đầu tư vào ngành dịch vụ này, Bạch Thái Bưởi có lẽ là người có ảnh hưởng mạnh nhất. Xuất thân hoàn cảnh nghèo khó, bước vào đời với nghề thư ký, rồi đốc công cho doanh nghiệp Pháp, Bạch Thái Bưởi đã mau chóng gây dựng và phát triển sự nghiệp riêng, trở thành biểu tượng cho sự thành công của tư sản Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Sau khi ép buộc triều đình nhà Nguyễn ký hoàng loạt các hiệp ước đầu hàng, năm 1897, thực dân Pháp thiết lập Liên bang Đông Dương, bao gồm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Lào và Cămpuchia. Không giống như các thuộc địa khác ở Đông Nam Á, như Đông Ấn Hà Lan, Malay thuộc Anh, hay Philippines thuộc Mỹ, nơi chính quyền thực dân áp dụng chủ nghĩa tự do (liberalism) cho phép tư bản nước ngoài được đầu tư vào thuộc địa, thực dân Pháp lại theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ (protectionism) nhằm biến Việt Nam thành thuộc địa của riêng nước Pháp.
Việc hạn chế tư bản nước ngoài đầu tư vào thuộc địa tạo cơ sở cho sự lũng đoạn và độc quyền của tư bản Pháp, biến nền kinh tế thuộc địa phụ thuộc nặng nề vào chính quốc. Tuy nhiên, việc thiếu vắng các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ phần nào lại mở ra cơ hội kinh doanh cho người bản địa. Một số thương nhân Việt Nam sở hữu tàu thuyền trực tiếp tới buôn bán ở các hải cảng nước ngoài như tới Trung Quốc, Hongkong, Singapore, Nhật, Pháp, Lào, Campuchia, Đông Ấn Hà Lan Philippines. Tàu thuyền Việt Nam ra vào buôn bán tấp nập giữa Bắc và Nam, giữa trong nước và ngoài nước ngày càng tăng. Từ trong hoạt động kinh doanh này, nổi lên một số nhà tư sản giàu có như Trương Văn Bền, Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Thanh Liêm, Lê Phát Vĩnh, Bạch Thái Bưởi...
Quá trình hình thành, phát triển và thăng trầm trong kinh doanh của giới tư sản Việt Nam đầu thế kỷ XX có thể được thấy rõ nhất qua hình trình khởi nghiệp của doanh nhân Bạch Thái Bưởi. Ông sinh năm 1874 tại làng An Phú, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Có tài liệu cho rằng Bạch Thái Bưởi vốn họ Đỗ, tuy nhiên gia đình vốn nghèo khó, cha mất sớm, mẹ phải buôn bán vất vả. Ông được một gia đình giàu có họ Bạch nhận làm con nuôi nên đổi sang họ Bạch.
Khi bắt đầu sự nghiệp, Bạch Thái Bưởi làm thư kí cho một hãng buôn người Pháp ở phố Tràng Tiền và sau đó làm thư ký cho một xưởng máy thuộc hãng thầu công chính. Trong thời gian này Bạch Thái Bưởi được tiếp xúc với cách thức tổ chức, quản lý hiện đại của người Pháp nên ông quyết tâm học hỏi, mưu cầu sự nghiệp riêng. May mắn đến với ông vào năm 1895, khi ông được lựa chọn làm đại diện để cử đi Pháp, giới thiệu sản phẩm của xứ Bắc Kỳ tại Hội chợ Bordeaux. Tại Pháp, Bạch Thái Bưởi nỗ lực tìm hiểu, học hỏi cách thức sản xuất, bán buôn, nghệ thuật khuếch trương thương nghiệp của người Pháp. Sau khi về nước, Bạch Thái Bưởi xin vào làm đốc công tại một công trường xây dựng cầu Paul Doumer (nay là cầu Long Biên).
Với vốn kiến thức đã tích luỹ và đầu óc kinh doanh, Bạch Thái Bưởi nhận thấy cơ hội khởi nghiệp của mình gắn với công trình xây dựng này. Ông hùn tiền với một người Pháp nhận làm thầu khoán cung cấp gỗ làm tà-vẹt cho Sở Hỏa xa Đông Dương. Sau khi đã tích lũy được một số vốn khá lớn, Bạch Thái Bưởi chuyển hướng kinh doanh sang thu gom ngô để xuất khẩu. Tuy nhiên, do không may, gặp đúng lúc ngô mất mùa, giá ngô cao, ông không thể gom đủ hàng cho đối tác nên đã bị kiện ra toà và bị buộc phải bồi thường. Thất bại lần này là bài học để đời cho Bạch Thái Bưởi trên thương trường.
Năm 1906, Bạch Thái Bưởi lại tham gia thương trường, lần này là đấu thầu và thắng thầu nhà cầm đồ ở Nam Định. Ông cũng trúng thầu việc thu thuế nợ ở chợ Nam Định, Thanh Hóa, Vinh – Bến Thủy. Sau đó, ông còn mở nhà hàng kiểu Tây ở Thanh Hóa và khá thành công. Vốn liếng tích lũy được ngày càng nhiều, kinh nghiệm trong giao thiệp, làm ăn ngày càng trở nên phong phú hơn. Đây chính là điều kiện để Bạch Thái Bưởi có thể mở rộng hoạt động kinh doanh, tham gia vào các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn, quan hệ rộng và kiến thức kinh doanh phong phú.
Từ năm 1908, Bạch Thái Bưởi chuyển hướng sang kinh doanh vận tải đường thủy, lĩnh vực ghi nhiều dấu ấn thành công nhất của ông. Ngoài ra, Bạch Thái Bưởi còn lấn sang lĩnh vực in ấn, xuất bản. Ông đầu tư lập ra nhà in “Đông Kinh quán ấn” (Imprimerie Tonkinoise), một trong số nhà in lớn và ra đời sớm nhất ở Hà Nội. Năm 1921, Bạch Thái Bưởi cho ra tờ báo riêng mang tên “Khai Hóa nhật báo” làm công cụ chuyên quảng bá cho hoạt động kinh doanh của mình. Bạch Thái Bưởi cũng là người tham gia sáng lập Hội Khai trí tiến đức, là thành viên quan trọng trong Hội đồng quản trị và liên tục được bầu làm phó hội trưởng. Ông giúp đỡ đắc lực về mặt tài chính cho Hội và thường xuyên tổ chức các buổi gặp gỡ, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm kinh doanh cho các nhà tư sản Việt Nam.
Từ năm 1926, hoạt động kinh doanh vận tải đường thủy của Bạch Thái Bưởi bắt đầu gặp khó khăn do những tác động của cuộc Đại khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1933. Trong bối cảnh đó, Bạch Thái Bưởi đã nhanh chóng chuyển hướng đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh mới là khai mỏ. Vẫn theo cách làm trước đây, ông tập trung vốn liếng mua lại các nhượng địa đã có sẵn, đồng thời tổ chức thăm dò lập thêm mỏ mới. Bạch Thái Bưởi từng sở hữu 10 nhượng địa than, cụ thể là Jean (lập năm 1911); Alexandre và Fabien (lập năm 1915); Antoine và Cardiff (lập năm 1925); Julie, Phi Hổ, Porcelaine, Pourquoi pas và Limoges (lập năm 1928). Các nhượng địa này hầu hết là của người Pháp và một số tư sản người Việt; chỉ riêng mỏ Pourquoi pas (Tại sao không) là nhượng địa do Bạch Thái Bưởi khai lập. Tại một số mỏ, ông cho xây đường sắt để vận chuyển than ra bến cảng. Với việc sở hữu số lượng lớn nhượng địa mỏ và đầu tư cho cơ sở hạ tầng rõ ràng Bạch Thái Bưởi đã chuẩn bị cho việc kinh doanh lớn.
Tuy nhiên, không giống như lĩnh vực vận tải đường thủy, nơi Bạch Thái Bưởi về cơ bản chỉ phải đối mặt với sự cạnh tranh của tư sản Hoa kiều, ngành khai thác mỏ hầu như do tư sản Pháp kiểm soát với sự hậu thuẫn của chính quyền thực dân. Trong bối cảnh khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế, thiếu vốn và trang thiết bị, lại chịu sự cạnh tranh khốc liệt của các chủ mỏ Pháp, nên mặc dù sở hữu nhiều nhượng địa, trên thực tế Bạch Thái Bưởi mới chỉ có điều kiện tập trung khai thác hai mỏ chính là Alexandre có diện tích 1.200 ha và Fabien có diện tích 724 ha. Hai mỏ này nằm trong bể than Đông Triều, vùng Bí Chợ, do hai người con là Bạch Thái Tòng và Bạch Thái Toàn quản lý. Sản lượng than khai thác được từ hai mỏ này cũng không cao. Tổng sản lượng của mỏ Bí Chợ từ khi Bạch Thái Bưởi mua lại vào năm 1925 đến năm 1928 chỉ khoảng 6.000 tấn. Hoạt động khai thác bị dừng lại vào năm 1931.
Như đã nói ở trên, từ năm 1908, Bạch Thái Bưởi bắt đầu tham gia hoạt động kinh doanh vận tải đường thủy, vốn là lĩnh vực trước giờ do tư sản người Pháp và người Hoa kiểm soát. Quyết định này đã đưa Bạch Thái Bưởi trở thành người Việt Nam đầu tiên kinh doanh ở lĩnh vực mới mẻ mà người Việt Nam chưa từng tham gia. Trước hết, ông thuê ba chiếc tàu của hãng tàu thủy Pháp là Marty - D’Abbadie và đổi tên tàu thành Phi Phượng, Phi Long và Khoái Tử Long. Ông cho tàu của mình chạy tuyến Nam Định - Hà Nội, Nam Định - Bến Thủy (Vinh), và từ năm 1912 thêm tuyến Nam Định – Hải Phòng, Hà Nội – Tuyên Quang vốn là những tuyến đường thủy do các chủ thuyền người Hoa kiểm soát.
Để cạnh tranh với người Hoa, ngoài việc hạ giá vé, nâng cao chất lượng dịch vụ, Bạch Thái Bưởi chú trọng đến việc kêu gọi tinh thần dân tộc “người Nam ủng hộ người Nam” của các khách đi tàu. Đây chính là vũ khí quan trọng nhất để ông chiến thắng trong cuộc cạnh tranh cam go với tư sản Hoa kiều. Năm 1915, hãng Marty - D’Abbadie tuyên bố phá sản, Bạch Thái Bưởi mua lại tất cả đội tàu và xưởng sửa chữa tàu. Nhờ đó mà Bạch Thái Bưởi đã sở hữu một nhà máy lớn nhất nhì ở Hải Phòng. Trong tay ông lúc này có 25 thuyền chèo và tàu kéo, nhiều xà lan chạy khắp các tuyến sông ở Bắc Kỳ. Một năm sau, năm 1916, Bạch Thái Bưởi chính thức thành lập Giang hải luân thuyền Bạch Thái Công ty với lá cờ hiệu màu vàng có hình mỏ neo và 3 ngôn sao màu đỏ. Sau này ba ngôi sao được thay thế bằng ba chữ cái B, T, B (Bạch Thái Bưởi).
Khi công ty Deschwendes phá sản, ông mua luôn 6 chiếc thuyền và một số xà lan của công ty này. Các con tàu ông mua được đặt tên mang đậm tinh thần dân tộc như Lạc Long, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Hồng Bàng, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi và các vị vua nhà Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh. Ngày 7/9/1919, tại cảng Cửa Cấm, Hải Phòng, Bạch Thái Bưởi chính thức cho hạ thủy con tàu hơi nước Bình Chuẩn, bằng thép, nặng tới 600 tấn do chính công ty ông đóng.
Sự kiện này được chào đón nhiệt liệt bởi nhiều người dân, được ví như một biểu trong phong trào chấn hưng thương trường, cổ động thực nghiệp của người Việt. Khi ông tới Sài Gòn vào tháng 6/1920, Bạch Thái Bưởi được chào đón và được tôn vinh như là một nhà đại công nghiệp, một người An Nam kiệt xuất đã chiến thắng trong cuộc cạnh tranh với người Hoa trên sông Bắc Kỳ. Trên thực tế, cho đến năm 1920, Bạch Thái Bưởi đã sở hữu trên 30 tàu, khả năng tải trọng lên tới 3.600 tấn. Các tàu của Bạch Thái Bưởi có trọng tải hơn 2.000 tấn, công suất 3000 mã lực, tốc độ trung bình 8 dặm, có thể chuyên chở trên 7.000 khách. Các tàu của Bạch Thái Công ty chạy hầu hết trên các tuyến sông Bắc Kỳ. Cũng vì lý do đó, Bạch Thái Bưởi được giới tư bản mệnh danh là “Chúa sông Bắc Kỳ”.
Không chỉ mong muốn làm chủ các tuyến vận tải nội thủy, Bạch Thái Bưởi có tham vọng mở rộng thị trường vận tải buôn bán tới Trung và Nam Kỳ và xa hơn nữa tới các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực HongKong, Singapore, Trung Quốc, Phillipines... Giờ đây, khát vọng của Bạch Thái Bưởi không còn chỉ dừng lại ở danh xưng “Chúa sông Bắc Kỳ” nữa, mà ông đang nỗ lực vươn ra đại dương với những con tàu mang tên các vị anh hùng dân tộc và các địa danh nước Việt. Năm 1914, Bạch Thái Bưởi làm đơn xin được sang Hồng Kông, Ma Cao, Quảng Châu để nghiên cứu học hoi và mở rộng thị trường kinh doanh.
Việc thành lập Giang hải luân thuyền Bạch Thái Công ty cũng là để chuẩn bị cho tham vọng mở rộng đế chế kinh doanh hàng hải của mình ra thế giới. Chuyến xuất dương đầu tiên của con tàu Bình Chuẩn là tới Sài Gòn vào ngày 17/09/1920 và được chào đón nồng nhiệt bởi giới tư sản Nam Kỳ. Đặc biệt, theo thỏa thuận với chính quyền Đông Dương ngày 28/4/2023, Bạch Thái Bưởi thuê con tàu Albert Sarraut của Hạm Đội Đông Dương (Flotte Indochinoise) cùng toàn bộ thủy thủ đoàn trong thời hạn một năm. Đây là con tàu thuộc mẫu Marie-Louise được chính quyền Pháp đóng tại xưởng Sài Gòn theo mẫu gửi từ Pháp. Con tàu vốn được sử dụng để vận chuyển than trong giai đoạn chiến tranh. Về lý thuyết, việc thuê tàu Albert Sarraut sẽ giúp Bạch Thái Bưởi mở rộng hoạt động kinh doanh đến khu vực Eo biển Malacca, Quần đảo Sunda, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc và thậm chí là Châu Âu.
Tuy nhiên, trên thực tế việc thuê con tàu Albert Sarraut lại là một tổn thất kinh tế lớn đối với Công ty Bạch Thái Bưởi. Theo lịch trình, ngày 6/7/1922, con tàu rời Sài Gòn đi Thượng Hải, sau đó đến cảng Tongku, Thiên Tân, rồi tới Manila. Tuy nhiên, do thường xuyên phải dừng lại sửa chữa nên phải sau hơn 7 tháng, tàu Albert Sarraut mới quay trở về Hải Phòng vào ngày 20/2/1923. Chính vì việc con tàu mất quá nhiều thời gian di chuyển và chi phí sửa chữa lớn gây thiệt hại về kinh tế nên đã dẫn đến việc khiếu nại của Bạch Thái Bưởi tới chính quyền Đông Dương. Ngoài việc gặp khó khăn trong việc mở rộng hoạt động buôn bán ra quốc tế, hoạt động kinh doanh nội thủy của Bạch Thái Bưởi cũng gặp nhiều bất lợi do luôn gặp phải tai nạn. Ví dụ, vụ cháy tàu Dragon ở cảng Quý Cao vào ngày 15/12/1921 khiến 80kg bông bị thiêu rụi, đồ đạc của hành khách trên tàu bị thất lạc hết; vụ đắm tàu Nguyễn Trãi ngoài khơi gần Đồ Sơn vào ngày 29/5/1923 khi tàu đang trên đường đi Đà Nẵng làm 17 thủy thủ đoàn phải đi bè mảng vào bờ. Ngoài ra còn có một số vụ va chạm giữa tàu của Bạch Thái Bưởi với tàu của người Hoa và tàu của Pháp cũng gây thiệt hại cho công ty, ví dụ như vụ va chạm giữa tàu Trưng Trắc và tàu của Sở công chính Pháp vào ngày 21/9/1922 và giữa tàu Đồng Khánh của Bạch Thái Bưởi với tàu Chun Ninh của người Hoa vào ngày 2/3/1922. Các vụ va chạm này khiến công ty Bạch Thái Bưởi bị kiện và phải bồi thường thiệt hại, gây nhiều khó khăn cho công ty.
Từ năm 1926, sự nghiệp kinh doanh của Bạch Thái Bưởi bắt đầu đi xuống, đầu tiên là việc chiếc tàu An Nam chở 150 tấn xi măng bị chìm không rõ lý do, gây thiệt hại đến 60 vạn đồng Đông Dương. Trong các năm tiếp theo, Bạch Thái Công ty tiếp tục gặp khó khăn, lượng khách đi tàu thủy nội địa giảm sút do người dân ưu tiên sử dụng đường bộ và đường sắt; hoạt động vận tải quốc tế cũng bị đình trệ do ảnh hưởng ban đầu của cuộc Đại khủng hoảng kinh tế. Ngày 5/4/1929, Bạch Thái Công ty chính thức tuyên bố phá sản.
Ngày 22/7/1932, khi vẫn đang phải vật lộn với công việc kinh doanh khó khăn, Bạch Thái Bưởi đột ngột mất. Công việc kinh doanh được chuyển nhượng lại cho hai người con. Tuy nhiên, trước những khó khăn của thời cuộc, các con của Bạch Thái Bưởi đã không thể vực dậy được sự nghiệp kinh doanh của ông. Khi Nhật chiếm đóng Đông Dương năm 1940, những cơ sở kinh doanh của Bạch Thái Bưởi bị chiếm dụng trở thành doanh trại của các lực lượng thân Nhật. Cái chết đột ngột của Bạch Thái Bưởi là sự kiện chấn động trong giới kinh doanh ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Sự ra đi của ông, “một bậc vĩ nhân ở đất Bắc, một bậc trượng phu trong thương trường” là một tổn thất rất lớn cho giới tư sản người Việt, vốn đã yếu thế, lại luôn phải chịu sự chèn ép của tư sản nước ngoài và của chính quyền thực dân. Bạch Thái Bưởi là hình ảnh đại diện cho giới tư sản dân tộc Việt Nam được hình thành vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Cái chết của Bạch Thái Bưởi đã kéo theo sự sụp đổ của một trong những đế chế kinh doanh lớn nhất của người Việt đầu thế kỷ XX.
12:15:00 PM GMT+7Thứ 4, 29/01/2025
12:12:00 PM GMT+7Thứ 4, 29/01/2025
09:41:00 AM GMT+7Thứ 3, 21/01/2025
Website nội bộ của VCCI
Liên kết nhanh
Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI
Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023
Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI
Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI | ||
Văn Phòng - Lễ tân: | Phụ trách website: | Liên hệ quảng cáo: |
📞 + 84-24-35742022 | 📞 + 84-24-35743084 | 📞 + 84-24-35743084 |
+ 84-24-35742020 | vcci@vcci.com.vn |
Truy cập phiên bản website cũ. Thiết kế và phát triển bởi ADT Global