Tel: +84 24 35742022 | Fax: +84 24 35742020

Quy định việc cấp sổ đỏ cho tài sản chung của vợ chồng

Thứ năm, 24-08-2023 | 14:47:00 PM GMT+7 Bản in
Ông Nguyễn Xuân Hoàng (Khánh Hòa) có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (có được sau hôn nhân) nhưng chỉ đứng tên một mình ông, không đưa tên vợ vào Giấy chứng nhận.

Nay ông Hoàng làm thủ tục cấp đổi, cấp lại, đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận theo Khoản 1 Điều 10 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT như sau:

"1. Hồ sơ nộp khi thực hiện thủ tục cấp đổi Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng gồm có:

a) Đơn đề nghị cấp đổi Giấy chứng nhận theo Mẫu số 10/ĐK;

b) Bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp;

c) Bản sao hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thay cho bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp cấp đổi Giấy chứng nhận sau khi dồn điền đổi thửa, đo đạc lập bản đồ địa chính mà Giấy chứng nhận đã cấp đang thế chấp tại tổ chức tín dụng".

Tuy nhiên, khi ông Hoàng nộp hồ sơ tại Bộ phận một cửa của huyện thì cán bộ tiếp nhận hồ sơ hướng dẫn hai vợ chồng đến Văn phòng công chứng hoặc UBND xã, phường làm thỏa thuận đưa tên vợ vào Giấy chứng nhận thì mới tiếp nhận hồ sơ. Phí công chứng có nơi 110.000 đồng, có nơi 800.000 đồng, có nơi 1.000.000 đồng.

Ông Hoàng hỏi, cán bộ hướng dẫn như vậy có đúng theo quy định của pháp luật hiện hành không?

Ông Hoàng tra cứu nhưng không thấy nội dung công chứng thỏa thuận đưa tên vợ/chồng vào tài sản mà chỉ hướng dẫn theo Khoản 1 Điều 10 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Ông Hoàng đề nghị cơ quan chức năng giải đáp để người dân biết và thực hiện nhằm tiết kiệm chi phí khi làm thủ tục này.

Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời vấn đề này như sau:

Do không rõ thời điểm cấp Giấy chứng nhận và việc thể hiện thông tin về người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất tại trang 1 của Giấy chứng nhận nên Bộ Tài nguyên và Môi trường không có cơ sở để trả lời cụ thể.

Pháp luật về đất đai hiện hành quy định việc cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp tài sản chung của vợ, chồng như sau:

Tại Khoản 4 Điều 98 Luật Đất đai quy định: "4. Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người. Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng mà Giấy chứng nhận đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc chồng thì được cấp đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng nếu có yêu cầu".

Căn cứ theo quy định nêu trên, thì đối với quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ và chồng mà Giấy chứng nhận đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc chồng thì được cấp đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng nếu có yêu cầu mà không bắt buộc phải thực hiện.

Theo quy định tại Điều 204 Luật Đất đai, trường hợp ông không đồng ý với nội dung giải quyết của Văn phòng đăng ký đất đai thì ông có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của Văn phòng đăng ký đất đai.

Bộ Tài nguyên và Môi trường thông tin đến ông được biết để nghiên cứu, thực hiện.

Theo Chinhphu.vn (Báo Chính phủ)

https://baochinhphu.vn/quy-dinh-viec-cap-so-do-cho-tai-san-chung-cua-vo-chong-102230820121417454.htm

Ý kiến bạn đọc (0)